Quyền kết hôn của cá nhân không có sự phân biệt đối xử đối với các cá nhân khác nhau, miễn sao phải đảm bảo điều kiện kết hôn theo luật định. Vậy hành vi cản trở người khuyết tật kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Mục lục bài viết
1. Cản trở người khuyết tật kết hôn có vi phạm pháp luật không?
Quyền kết hôn là một trong quyền cơ bản của công dân không phân biệt màu da, dân tộc, tôn giáo. Cá nhân nếu đã có đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định thì được kết hôn theo đúng quy định. Căn cứ theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì những điều kiện cần đảm bảo thường liên quan đến yêu tố về độ tuổi, ý chí của các bên cũng như vấn đề về năng lực trách nhiệm dân sự, cụ thể:
– Về quy định điều kiện kết hôn:
+ Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện về độ tuổi đó là Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
+ Cá nhân quyết định kết hôn không bị ràng buộc vì bất cứ ai, mọi quyết định được nam và nữ tự nguyện quyết định;
+ Pháp luật chỉ công nhận việc đăng ký kết hôn là hợp pháp nếu các bên không bị mất năng lực hành vi dân sự;
+ Đồng thời, cũng cần đảm bảo việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
– Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý.
Liên quan đến vấn đề có hành vi cản trở quyền kết hôn người khuyết tật thì đây là một trong các hành vi bị nghiêm cấm đã được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:
+ Pháp luật nghiêm cấm hoàn toàn việc thực hiện kết hôn có yếu tố giả tạo, ly hôn giả tạo;
+ Thực hiện hành động tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, vì để đạt được mục đích là kết hôn mà cung cấp các thông tin cũng như có hành động lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
+ Nếu cơ quan nhà nước phát hiện ra người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
+ Thậm chí còn xảy ra trường hợp kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; Nghiêm cấm phát sinh việc kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
+ Lợi dụng phong tục tập quán mà đưa ra các yêu sách của cải trong kết hôn;
+ Cá nhân thực hiện hành động cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
+ Bên cạnh đó còn phải kể đến hoạt động sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
+ Trong đời sống hôn nhân luôn xảy ra bất đồng và tồn tại bạo lực gia đình;
+ Pháp luật Việt Nam cũng loại trừ trường hợp lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, tiến hành bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi;
Với những nội dung đã trình bày nêu trên thì nếu có hành vi vi phạm thì được xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật. Hành động cản trở người khuyết tật đang xâm phạm quyền cơ bản của công dân này, pháp luật nghiêm cấm thực hiện trong bất kỳ cách thức nào. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền áp dụng biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
2. Hành vi cản trở người khuyết tật kết hôn sẽ phải chịu mức xử phạt vi phạm hành chính thế nào?
Như đã biết, khi có hành động cản trở đối với kết hôn mà đối tượng bị cản trở là người khuyết tật thì căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị định 130/2021/NĐ-CP đã ghi nhận mức xử phạt được áp dụng tùy từng trường hợp với mức phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng như sau:
– Có hành động kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật;
– Cá nhân nếu có hành vi cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con hợp pháp của người khuyết tật sẽ bị áp dụng xử phạt nêu trên;
– Thực hiện hành động cản trở người khuyết tật sống độc lập, hòa nhập cộng đồng;
– Bên cạnh đó, còn quy định về việc cản trở người khuyết tật tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội;
– Cản trở người khuyết tật thực hiện quyền tiếp cận công nghệ thông tin.
Liên quan về mức xử phạt hành chính áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thì được áp dụng mức khác nhau. Căn cứ theo Điều 5 mức phạt tiền và thẩm quyền xử phạt quy định như sau:
– Mức phạt tiền đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính quy định tại Chương II của Nghị định này là sẽ chỉ được áp dụng đối với hành vi vi phạm của cá nhân, trừ quy định tại các Điều 8, 9, 12, 13, 14, khoản 1 Điều 16, Điều 33 và khoản 2 Điều 36 của Nghị định này. Còn đối với tổ chức có thực hiện hành vi tương ứng với hành vi của cá nhân thì mức phạt sẽ gấp hai lần mức phạt tiền đối với cá nhân vi phạm;
– Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định từ Điều 38 đến Điều 45 của Nghị định này là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính của cá nhân; trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt đối với tổ chức vi phạm gấp hai lần thẩm quyền xử phạt đối với cá nhân vi phạm.
Theo đó, cản trở người khuyết tật kết hôn thì có thể sẽ bị phạt tiền từ 3 triệu đồng đến 5 triệu đồng, và mức phạt này áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có cùng hành vi này thì mức phạt sẽ gấp 02 lần đó là 6 triệu đồng đến 5 triệu đồng.
3. Chánh Thanh tra sở có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm cản trở người khuyết tật kết hôn:
Theo quy định khoản 7 Điều 37 Nghị định 130/2021/NĐ-CP thì có quy định Thanh tra có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11, khoản 2 Điều 11 và điểm b khoản 1 Điều 23 của Nghị định này. Theo đó, Chánh Thanh tra sở quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 và khoản 9 Điều 37 của Nghị định này có quyền:
– Áp dụng hình thức phạt cảnh cáo;
– Tùy thuộc vào mức độ hành vi vi phạm mà có thể phạt tiền đến 25.000.000 đồng;
– Cá nhân này được trao thẩm quyền tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
– Thực hiện hành vi tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có giá trị đến 50.000.000 đồng;
– Đồng thời, trong một số trường hợp thì áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị định này.
Như vậy, hành vi gây cản trở người khuyết tật thực hiện quyền kết hôn sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định. Có nhiều cá nhân, tổ chức được trao thẩm quyền xử phạt, bao gồm thẩm quyền của Thanh tra, cụ thể là Chánh Thanh tra sở với mức xử phạt được áp dụng lên tới 25 triệu đồng.
Văn bản pháp luật được sử dụng:
– Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
– Nghị định số 130/2021/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo trợ, trợ giúp xã hội và trẻ em;