Các hình phạt áp dụng đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Lưu ý trong việc áp dụng hình phạt đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Mục lục bài viết
1. Nguyên tắc xử lý đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Đối với nhóm các tội phạm về chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng, nhà nước ta đề ra định hướng, nguyên tắc xử lý riêng phù hợp với tính chất của loại tội phạm này. Những nguyên tắc xử lý này được cụ thể hóa tại Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 HĐTP
Việc xử lý tội phạm phải bảo đảm nghiêm khắc và tuân thủ triệt để các nguyên tắc của PLHS, pháp luật tố tụng hình sự.
– Xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 của BLHS đối với trường hợp người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Người phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
+ Người phạm tội là người có quan hệ lệ thuộc (như cấp dưới đối với cấp trên, người làm công hưởng lương, chấp hành nhiệm vụ theo chỉ đạo của cấp trên), không ý thức được đầy đủ hành vi phạm tội của mình, không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, không được hưởng lợi; đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần có hiệu quả vào việc điều tra, xử lý tội phạm;
+ Người phạm tội đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, tích cực hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, góp phần hạn chế thiệt hại, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra;
+ Người phạm tội sau khi bị phát hiện đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chủ động nộp lại toàn bộ tài sản chiếm đoạt, đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình gây ra.
Vì chủ thể của tội phạm chức vụ nói chung và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nói riêng là người có chức vụ, quyền hạn, quyền hạn càng lớn thì khả năng gây thiệt hại càng cao. Do đó việc xử lý tội phạm phải luôn đảm bảo tính nghiêm khắc mạnh mẽ để hạn chế loại tội phạm này. Tuy nhiên, cũng chính vì chủ thể thực hiện tội phạm là người có chức vụ – người đã có sự phấn đấu, cống hiến cho công việc, hơn nữa người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng chỉ thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý, vì vậy PLHS vẫn có chính sách khoan hồng đối với loại tội này: không chỉ được áp dụng chế định miễn hình phạt trong một số trường hợp phạm tội mà hình phạt nghiêm khắc nhất đối với tội này cũng chỉ là hình phạt tù có thời hạn với mức cao nhất là 12 năm (không áp dụng hình phạt chung thân và tử hình với tội này).
2. Các hình phạt áp dụng đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Theo PLHS thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong BLHS, do
2.1. Hình phạt cải tạo không giam giữ:
Cải tạo không giam giữ là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số hình phạt chính không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Khác với hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan có thẩm quyền.
Hình phạt này có thể được áp dụng với chủ thể phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 360 BLHS. Đó là các trường hợp:
– Làm chết người
Tại quy định này mặc dù nhà làm luật không nói rõ làm chết bao nhiêu người, nhưng mặc định hiểu rằng đây là trường hợp do thiếu trách nhiệm nên đã gây ra chết 01 người (bởi nếu chết hơn 01 người sẽ được quy định tại khoản khác). Do đó nếu người có hành vi do thiếu trách nhiệm và gây thiệt hại đến tính mạng của 01 người sẽ bị xử lý theo khoản 1 Điều 360.
Tuy nhiên đối với trường hợp hành vi phạm tội làm chết 01 người và 01 người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khỏe thì có áp dụng khoản 1 để xử lý hay không. Câu trả lời là có. Cho dù hành vi đó gây thương tích hay tổn hại cơ thể của người khác ở mức độ nào (bao nhiêu phần trăm) chăng nữa thì nếu đồng thời gây chết 01 người, người đó cũng chỉ phải chịu TNHS theo khoản 1 Điều 360.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%
Đây là trường hợp người có chức vụ do thiếu trách nhiệm mà không thực hiện không thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả là thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho 01 người với tỷ lệ là 61%; hoặc cho 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% đến 121%.
Ở đây đặt ra một vấn đề: trong trường hợp hành vi phạm tội gây thiệt hại cho nhiều người (từ 02 người trở lên) thì có cần thỏa mãn điều kiện về tỷ lệ tổn thương cơ thể của từng người một không hay kể cả có những người chỉ bị tổn thương cơ thể với tỷ lệ 1%, 2 % nhưng tổng tổn thương tỷ lệ của tất cả những người đó từ 61% đến 121% là được. Theo quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng với cách hành văn của điều luật đã thể hiện rõ ý định của nhà làm luật: đó là không cần biết tỷ lệ tổn thương của từng người là bao nhiêu, miễn sao tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người bị gây thiệt hại 61% đến 121% là bị truy cứu TNHS và có thể được xem xét để quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ đối với hành vi này.
– Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng
Nếu hai trường hợp nêu trên là hậu quả hành vi thiếu trách nhiệm gây ra đối với con người cụ thể thì ở trường hợp này hậu quả không chỉ đối với cá nhân mà còn là hậu quả thiệt hại về tài sản đối với cả cơ quan, tổ chức. Nếu hành vi của người có chức vụ do thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với nhiệm vụ được giao gây thiệt hại về tài sản dưới 100.000.000 đồng hoặc trên 500.000.000 đồng thì không bị truy cứu TNHS về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 360 BLHS.
Như vậy, nếu chủ thể phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 36 BLHS về loại hình phạt này.
2.2. Hình phạt tù có thời hạn:
Tù có thời hạn là loại hình phạt truyền thống và được áp dụng phổ biến. Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. So với các hình phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn có tính nghiêm khắc hơn nhiều vì hình phạt này buộc người bị kết án phải cách ly khỏi xã hội, cách ly khỏi môi trường sống và hoạt động bình thường của họ trước khi bị kết án.
Theo quy định tại Điều 360 BLHS thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 12 năm. Ở mỗi khoản tại Điều 360 sẽ được áp dụng những khung hình phạt khác nhau.
Đối với những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 360, ngoài hình phạt cải tạo không giam giữ thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ 06 tháng đến 05 năm. Đây là trường hợp phạm tội nghiêm trọng, các trường hợp áp dụng đã được phân tích ở trên.
Đối với những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 360 thì khung hình phạt đã tăng lên, người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, chứng tỏ những mức độ nghiêm trọng của hậu quả và tính nguy hiểm của hành vi phạm tội là nhiều hơn nên hình phạt được quy định nghiêm khắc hơn. Đó là các trường hợp:
– Làm chết 02 người (điểm a khoản 2): là trường hợp người có chức vụ do thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây thiệt hại đến tính mạng cho 02 người. Tuy nhiên trong thực tiễn có trường hợp, tại thời điểm xảy ra thiệt hại thì có 01 người chết và 01 người bị thương nặng được đưa đi cấp cứu nhưng không qua khỏi (có thể người này không qua khỏi trên đường đi cấp cứu, trong khi cấp cứu, sau khi cấp cứu). Vậy trường hợp này sẽ áp dụng khoản 1 hay khoản 2 để truy cứu TNHS?
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200% (điểm b khoản 2): Trường hợp này cũng được hiểu tương tự như trường hợp quy định tại điểm c khoản 1. Điều luật không yêu cầu mức độ tổn thương của từng nạn nhân mà chỉ cần tổng tỷ lệ tổn thương của tất cả nạn nhân 122% đến 200% là được.
– Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng (điểm c khoản 2): trường hợp này, mức độ gây thiệt hại cho cá nhân, cơ quan, chức đã được nâng lên so với quy định tại khoản 1. Ở đây điều luật cũng không quy định thiệt hại này chỉ dành riêng cho đối tượng nào (cá nhân hay cơ quan hay tổ chức nào), cũng không quy định mức thiệt hại đối với mỗi đối tượng, hay quy định mức thiệt hại này là tính chung tổng thiệt hại gây ra cho mọi đối tượng bị thiệt hại bởi hành vi phạm tội. Về quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng điều luật quy định khái quát như vậy để chủ thể áp dụng có thể linh hoạt trong việc xem xét mức độ thiệt hại trong thực tiễn, có thể nhiều đối tượng bị thiệt hại miễn sao tổng thiệt hại được định giá, xác định bởi cơ quan có thẩm quyền là 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 thì bị truy cứu TNHS theo điểm này.
Tại 03 trường hợp trên, không xét về các yếu tố khác (tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS) thì hình phạt tù được áp dụng là từ 03 năm đến 07 năm – trường hợp phạm tội nghiêm trọng nhưng mức độ nghiêm trọng cao hơn trường hợp quy định tại khoản 1, đồng thời vẫn chưa đến mức rất nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng được quy định là những hành vi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 360 và bị áp dụng hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm. Những trường hợp này cụ thể là:
– Làm chết 03 người trở lên (điểm a khoản 3): Điều luật không giới hạn số lượng người chết như tại khoản 1 và khoản 2 mà chỉ đưa ra định mức tối thiểu là 03 người. Do đó đối với những trường hợp làm chết 05 người hay 50 người đều bị xử lý theo điểm này.
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 201% trở lên (điểm b khoản 3). Tương tự như trường hợp trên, điều luật không quy định một khoảng nhất định mà chi quy định mức thấp nhất, những trường hợp gây tổn hại tỷ lệ tổn hại cơ thể cho 03 người trở lên không cần biết tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của họ là bao nhiêu thì đều bị xử lý theo điểm này.
– Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên (điểm c khoản 3). Cùng với cách quy định của hai điểm trên, tại điểm c cũng lựa chọn cách dự liệu các trường hợp còn lại bằng cách quy định mức tối thiểu của thiệt hại. Bất kể thiệt hại cho ai, thiệt hại như thế nào miễn sao lớn hơn hoặc bằng 1.500.000.000 đồng đều bị xử lý theo điểm này.
Có thể thấy đối với những trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 360 thì hình phạt được quy định nghiêm khắc nhất: từ 07 năm đến 12 năm – thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Mức độ gây thiệt hại của hành vi phạm tội thiệt hại là quá lớn, do đó cả 03 trường hợp tại khoản này đều được quy định theo hướng: quy định mức tối thiểu để bao quát tất cả những trường hợp còn lại nguy hiểm hơn những trường hợp đã được quy định thì bị xử lý theo khoản này. Cách quy định như vậy giúp dữ liệu mọi tình huống tồi tệ hơn có thể phát sinh, tránh việc quy định vụn vặt phải chia nhiều khoảng, nhiều trường hợp mà vẫn không bao quát hết tất cả mọi trường hợp. Và cho dù thiệt hại trên thực tế có lớn thế nào, có bị áp dụng nhiều tình tiết tăng nặng TNHS thì hình phạt tù cao nhất đối với hành vi Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 BLHS cũng chỉ là 12 năm (trừ trường hợp tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 56 BLHS).
2.3. Hình phạt bổ sung:
Đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, do tính chất đặc thù của tội phạm là hành vi do người có chức vụ thực hiện – tức chủ thể đó luôn gắn bản thân với một chức vụ, công việc, nghề nghiệp nhất định, do đó để nâng cao tính răn đe cũng như hiệu quả phòng ngừa tội phạm, luật hình sự đã quy định thêm hình phạt bổ sung phù hợp với tính chất của loại tội này đó là hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm.
Đây là hình phạt bổ sung được áp dụng kèm theo hình phạt chính với nội dung là không cho phép họ đảm nhiệm chức vụ, làm nghề hoặc công việc nhất định sau khi chấp hành xong hình phạt chính nhằm mục đích củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính cũng như để ngăn ngừa họ có cơ hội tiếp tục phạm tội.
Đặc biệt, tại khoản 4 Điều 360 quy định rằng người phạm tội “còn bị áp dụng chứ không phải “có thể” bị áp dụng, tức hình phạt bổ sung là hình phạt bắt buộc đối với người phạm tội chứ không phải hình phạt tùy nghi nên khi tuyên án
3. Lưu ý trong việc áp dụng hình phạt đối với tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng:
Khi áp dụng hình phạt đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 360 BLHS, tòa án phải căn cứ vào Điều 50 BLHS. Về nguyên tắc, nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại 1 khoản của điều luật sẽ bị áp dụng mức hình phạt nặng hơn người chỉ thuộc 01 trường hợp quy định tại khoản đó. VD: người phạm tội vừa gây hậu quả là làm chết một người, vừa gây thiệt hại về tài sản là 200.000.000 đồng thì mức hình phạt được quy định tại khoản 1 sẽ cao hơn so với người phạm tội chỉ gây hậu quả chết 01 người. Do đó điều luật quy định một khoảng trong hình phạt (từ bao nhiêu năm đến bao nhiêu năm) là để Tòa án xem xét mức độ thiệt hại của hành vi phạm tội để quyết định hình phạt tương ứng. Không thể một hành vi thuộc 01 trường hợp (không áp dụng tình tiết tăng nặng, không tổng hợp hình phạt) mà bị áp dụng mức cao nhất của khung hình phạt quy định tại điều khoản đó. Như vậy là không hợp lý và không thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.
Vì tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện với lỗi vô ý, do đó đường lối xử lý cũng theo hướng khoan hồng hơn so với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Cho dù hậu quả của hành vi là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức thì người phạm tội cũng chưa chắc bị áp dụng hình phạt tù. Nếu người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc không cách ly người phạm tội khỏi xã hội là chính sách nhân đạo, không chỉ giúp người phạm tội nhận ra sai lầm của bản thân mà còn cảm hóa học, giúp họ có thêm cơ hội để sửa sai, tái hòa nhập một cách dễ dàng.
Còn đối với hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, đương nhiên việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn là có mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội và thực hiện mục đích răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, hình phạt này chỉ được áp dụng trong các trường hợp khi xét thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội trong một thời gian nhất định (việc giữ họ ở trong cộng đồng là không phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi và không thể hiện được tính nghiêm minh của pháp luật), và khung hình phạt của điều luật về tội phạm mà người đó đã thực hiện có hình phạt này – điều này đương nhiên được đảm bảo do các trường hợp quy định tại 3 khoản của điều luật đều quy định hình phạt tù có thời hạn.
Ngoài ra cũng cần lưu ý rằng, không phải trong mọi trường hợp phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thì chủ thể thực hiện sẽ chỉ bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn, mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác vẫn có thể áp dụng những chế định khác liên quan đến TNHS và hình phạt trong việc xử lý loại tội này.
Nếu trong trường hợp không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ không đến mức bị phạt 06 tháng tù thì Tòa án có thể cho người phạm tội được hưởng án treo (theo quy định tại Điều 65 BLHS) hoặc áp dụng hình phạt cho người phạm tội dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới 06 án tháng tù) (theo quy định tại Điều 54 BLHS), nhưng không được dưới 03 tháng tù (vì theo quy định khoản 1 Điều 38 BLHS thì hình phạt tù có thời hạn tối thiểu là 03 tháng).
Đối với những hành vi phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra vào thời điểm BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành được quy định tại Điều 285 nhưng lại bị phát hiện, xử lý tại thời điểm BLHS 1999 đã hết hiệu lực thì đường lối xử lý đối với những hành vi này được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 2 của
Các điều khoản của BLHS năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn TNHS, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích.
Đây cũng là quy định mang tính nhân đạo của PLHS Việt Nam khi luôn đảm bảo nguyên tắc: áp dụng tình tiết có lợi cho người phạm tội.