Những quy định chung của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ năm 2017) về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
Mục lục bài viết
1. Quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Ngày 27 tháng 11 năm 2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS số
Tại BLHS năm 2015 quy định về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi như sau:
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;
b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Có tính chất loạn luân;
b) Làm nạn nhân có thai;
c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Đối với 02 người trở lên;
g) Tái phạm nguy hiêm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Có tổ chức;
b) Nhiều người hiếp một người;
c) Đối với người dưới 10 tuổi;
d) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; đ) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
e) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi không phải là một tội danh mới mà là sửa đổi về tên tội danh của tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS năm 1999:
Việc thay đổi tên tội theo hướng cụ thể hóa tuổi bị hại vào tên tội danh giúp thể hiện rõ hơn các dấu hiệu pháp lý của tội phạm (thể hiện ngay trong tên điều luật), đây là một trong những điều kiện thuận lợi giúp các cơ quan hành pháp, tư pháp điều tra xử lý đúng hành vi, đúng tội đảm bảo tính nghiêm minh, tính răn đe của pháp luật.
Trải qua quá trình thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về tình dục nói chung và tội hiếp dâm nói riêng, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi được quy định trong BLHS năm 2015 có nhiều sửa đổi phù hợp, nhìn chung đáp ứng nhu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới, nhằm xử lý đúng người, đúng tội, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
2. Những dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Cũng như các tội phạm nói chung, về mặt cấu trúc tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi cũng được cấu thành bởi các yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Bốn yếu tố này có mối quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của một tội phạm cụ thể giúp chúng ta phân biệt được tội phạm này với tội phạm khác.
Về mặt bản chất, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là trường hợp đặc biệt của tội hiếp dâm, được tách ra từ tội hiếp dâm. Do vậy, tội này phải thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý chung của tội hiếp dâm. Bên cạnh đó, xét về mức hình phạt tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là trường hợp tăng nặng của tội hiếp dâm nên CTTP của tội này là CTTP tăng nặng của tội hiếp dâm. Những tình tiết có ý nghĩa tăng nặng được mô tả trong CTTP phản ánh dấu hiệu đặc trưng của tội phạm này.
Nghiên cứu quy định của BLHS năm 2015 có thể rút ra các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo như sau:
2.1. Khách thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
“Khách thể của tội phạm được hiểu theo nghĩa chung nhất là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”. Khách thể của tội phạm còn được định nghĩa “là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm”.
Về lý luận thì khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại nhưng không phải bất cứ quan hệ xã hội nào bị xâm hại cũng là khách thể của tội phạm, mà chỉ những quan hệ xã hội nào được Nhà nước xác định được bảo vệ bằng pháp luật hình sự mới được xem là khách thể của tội phạm khi chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại. Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 thì các nhóm quan hệ xã hội được xem là khách thể của tội phạm bao gồm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự, nhằm đánh giá xem hành vi phạm tội được thực hiện đã xâm hại đến quan hệ xã hội nào được pháp luật hình sự bảo vệ. Trong đó, khách thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là quyền được bảo vệ về danh dự, nhân phẩm và quyền bất khả xâm phạm về tình dục của người dưới 16 tuổi.
Một trong những bộ phận cấu thành của khách thể tội phạm đó là đối tượng tác động của tội phạm. Đối tượng tác động của tội phạm là các vật thể của thế giới vật chất mà người phạm tội tác động đến khi thực hiện hành vi xâm hại các khách thể xã hội do pháp luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là người dưới 16 tuổi. Theo quy định tại Điều 142 BLHS năm 2015 không quy định đối tượng tác động cụ thể là nam hay nữ mà chỉ quy định là người dưới 16 tuổi. Như vậy, bất cứ người nào dưới 16 tuổi đều là đối tượng tác động của tội này và tuổi của nạn nhân là dấu hiệu đặc trưng và bắt buộc. Việc xác định đúng đối tượng tác động của tội phạm có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng, trong một số
trường hợp nó là cơ sở phân biệt hành vi là tội phạm và hành vi không phải là tội phạm, cũng như những hành vi phạm tội gần giống nhau; có khi đối tượng tác động là dấu hiệu định khung tăng nặng của CTTP cụ thể khi chuyển hóa từ CTTP cơ bản thành CTTP tăng nặng …
2.2. Mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm. Theo TSKH.GS Lê Văn Cảm: “Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan”.
Bất kỳ tội phạm nào cũng được thể hiện ra bên ngoài, phản ánh trong thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện tội phạm.
* Dấu hiệu thứ nhất của mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hành vi khách quan: Trong số các dấu hiệu của mặt khách quan, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc phải có ở mọi tội phạm. Nếu không có hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không có tội phạm, vì vậy Điều 8 BLHS hiện hành quy định tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã hội mới gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hành vi nguy hiểm cho xã hội là cách xử sự nguy hiểm của chủ thể, xâm phạm các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ, được thực hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Theo nguyên tắc pháp chế, không có tội phạm nếu như không có luật quy định, tức là nếu như không có việc thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS hoặc hành vi đó tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không có tội phạm.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 142 BLHS năm 2015 thì hành vi khách quan gồm 2 loại:
Thứ nhất, đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hành vi khách quan gồm hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với trái với ý muốn của nạn nhân;
Thứ hai, đối với nạn nhân là người dưới 13 tuổi thì hành vi khách quan là hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.
Để làm rõ được các hành vi khách quan nêu trên cần nắm được các khái niệm sau:
+ Giao cấu: Là hành vi xâm nhập của bộ phận sinh dục nam vào bộ phận sinh dục nữ, với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập.
+ Trái với ý muốn của nạn nhân: Là người bị hại không đồng ý, phó mặc hoặc không có khả năng biểu lộ ý chí của mình đối với hành vi quan hệ tình dục cố ý của người phạm tội.
+ Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân: Là hành vi của những người cùng giới tính hay khác giới tính sử dụng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi …), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào, bao gồm một trong các hành vi sau đây: Một là, đưa bộ phận sinh dục nam xâm nhập vào miệng, hậu môn của người khác; Hai là, dùng bộ phận khác trên cơ thể (ví dụ: ngón tay, ngón chân, lưỡi …), dụng cụ tình dục xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, hậu môn của người khác.
– Loại hành vi khách quan thứ nhất của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà nạn nhân là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, bao gồm các hành vi khách quan sau:
+ Hành vi dùng vũ lực giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân: Là hành vi của một người dùng bạo lực để vật lộn, giữ chân tay, bịt mồm, bóp cổ, đánh đấm, trói … những hành vi này chủ yếu làm tê liệt sự kháng cự của người bị hại để người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp người phạm tội đã dùng vũ lực tới mức làm cho người bị hại bất tỉnh nhưng chưa bị chết và sau khi người phạm tội đã thoả mãn dục vọng, người bị hại đã chết thì ngoài tội hiếp dâm mà họ đã thực hiện, người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
+ Hành vi đe dọa dùng vũ lực để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân: Là hành vi của một người dùng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như: dọa giết, dọa đánh, dọa bắn nhằm làm tê liệt ý chí chống cự của nạn nhân làm cho người bị hại sợ hãi phải để cho người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ. Điều luật không quy định đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc, nên có thể hiểu hành vi đe doạ dùng vũ lực quy định ở đây bao gồm cả trường hợp đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc và trường hợp đe doạ dùng vũ lực sau đó cách một thời gian.
+ Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân để giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân: Là việc người phạm tội lợi dụng tình trạng người bị hại lâm vào một trong những hoàn cảnh sau đây để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác: Một là, người bị hại không thể chống cự được (ví dụ: người bị hại bị tai nạn, bị ngất, bị trói, bị khuyết tật… dẫn đến không thể chống cự được); Hai là, người bị hại bị hạn chế hoặc bị mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (ví dụ: người bị hại bị say rượu, bia, thuốc ngủ, thuốc gây mê, ma túy, thuốc an thần, thuốc kích thích, các chất kích thích khác, bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh khác… dẫn đến hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi).
+ Hành vi dùng thủ đoạn khác giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân: Bao gồm các thủ đoạn như đầu độc nạn nhân; cho nạn nhân uống thuốc ngủ, thuốc gây mê, uống rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác làm nạn nhân lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác; hứa hẹn cho tốt nghiệp, cho đi học, đi thi đấu, đi biểu diễn ở nước ngoài … để giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.
Loại hành vi khách quan thứ hai của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà nạn nhân là người dưới 13 tuổi, bao gồm: Hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác và không phụ thuộc vào ý chí của nạn nhân. Hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác cũng tương tự như hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đã phân tích nêu trên, chỉ cần người phạm tội thực hiện các hành vi này là cấu thành tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi mà không phụ thuộc vào ý muốn của nạn nhân.
Việc nhà làm luật quy định nạn nhân dưới 13 tuổi dù có đồng ý để người phạm tội giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác thì hành vi giao cấu này vẫn bị coi là phạm tội, xuất phát từ quan điểm: Ở độ tuổi dưới 13 trẻ em còn hết sức non nớt, yếu ớt, chưa có khả năng nhận thức, khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn, dễ bị người khác lôi kéo, rủ rê, mua chuộc, khó có thể tự vệ được, nên cần được bảo vệ một cách đặc biệt nhằm bảo đảm sự phát triển bình thường, lành mạnh của các em mà cần phải trừng trị thật nghiêm khắc đối với hành vi xâm phạm tình dục đối với các em.
Như vậy, theo quy định trên thì hành vi khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi đã mở rộng nội hàm về hành vi giao cấu, cụ thể không chỉ bao gồm các trường hợp giao cấu truyền thống mà còn có “hành vi quan hệ tình dục khác”, trong đó hành vi quan hệ tình dục khác còn bao gồm cả hành vi tình dục đồng giới, hành vi tình dục phi truyền thống. Việc quy định này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp thực tiễn đấu tranh, phòng chống loại tội này, góp phần vào việc xử lý nghiêm minh, tránh bỏ lọt tội phạm.
* Dấu hiệu thứ hai của mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội
Hậu quả là một trong các dấu hiệu khách quan của CTTP, là thiệt hại do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra cho quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ, gồm thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần và thiệt hại khác. Hậu quả có ý nghĩa quan trọng để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, hậu quả càng lớn thì mức độ nguy hiểm của tội phạm càng cao. Hậu quả của tội phạm cũng có ý nghĩa xác định giai đoạn hoàn thành của tội phạm. Đối với tội phạm có cấu thành vật chất được coi là hoàn thành khi hành vi nguy hiểm đã gây ra hậu quả. Đối với tội phạm có cấu thành hình thức được coi là hoàn thành khi người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội theo quy định của điều luật cụ thể trong BLHS.
Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hoàn thành khi hành vi khách quan được thực hiện không phụ thuộc vào hậu quả đã xảy ra hay chưa, hay nói cách khác tội này có cấu thành hình thức. Nếu người phạm tội mới thực hiện hành vi khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi như đã phân tích nêu trên mà chưa kịp giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Trường hợp, người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm thì họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Nhưng nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
* Dấu hiệu thứ ba của mặt khách quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan với hậu quả của hành vi nguy hiểm cho xã hội
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nếu hậu quả nguy hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra, hay nói một cách khác nếu giữa hành vi khách quan mà họ đã đã thực hiện và hậu quả nguy hiểm đó có quan hệ nhân quả với nhau. Quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tồn tại khi thỏa mãn các điều kiện: Một là, hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian; Hai là, hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Trong điều kiện nhất định, khả năng đó trở thành hiện thực là tất yếu; Ba là, hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế của hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là tội phạm có cấu thành hình thức nên dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc nên việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của mặt khách quan của tội phạm không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, đối với các trường hợp tội phạm đã đạt và đã hoàn thành, hậu quả đã xảy ra trên thực thế, người bị hại đã bị xâm hại thì việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của mặt khác quan của tội phạm là điều kiện cần thiết để xác định người phạm tội có hành vi hiếp dâm đối với người dưới 16 tuổi và người đó phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi mà người phạm tội đã thực hiện. Điều này có ý nghĩa trong việc áp dụng hình phạt đúng đắn đối với người phạm tội.
Ngoài ra, các dấu hiệu thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện và công cụ thực hiện tội phạm là một trong những dấu hiệu khách quan của tội phạm. Tuy nhiên, các dấu hiệu này không phải là dấu hiệu đặc trưng và bắt buộc của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.
2.3. Chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Chủ thể của tội phạm người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật hình sự quy định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Theo TSKH.GS Lê Văn Cảm:
Chủ thể của tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm (tức là bị luật hình sự coi là tội phạm), có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định).
Như vậy, theo các khái niệm trên thì chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân – tức là con người sinh học cụ thể và đang sống.
Chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi: Tại Điều 142 BLHS năm 2015 quy định về chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là “người nào” tức là cá nhân, con người cụ thể đang sống.
Bên cạnh đó, nếu như trước đây tại Điều 111 của BLHS 1999 để xác định chủ thể các nhà làm luật dùng từ “người nào” tức là bất cứ người nào (không phân biệt giới tính) để xác định chủ thể của Tội hiếp dâm trẻ em, nhưng thực tế xét xử vẫn không xử tội hiếp dâm đối với nữ (trừ trường hợp là đồng phạm) bởi vướng phải Bản tổng kết của TANDTC số 329/HS2 ngày 11/5/1967 trong đó quy định:
Giao cấu: Chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp.
Do đó, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội trong tội hiếp dâm trẻ em theo quy định của BLHS năm 1999 được hiểu là nam giới. Nữ giới chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm hiếp dâm trẻ em với vai trò đồng phạm.
BLHS năm 2015 quy định về chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi tại Điều 142, cũng sử dụng từ “người nào”. Nhưng căn cứ quy định tại
Năng lực trách nhiệm hình sự là điều kiện cần thiết để xác định con người có lỗi khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Chỉ người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi ấy. Khả năng điều khiển được hành vi ở đây được hiểu đầy đủ là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm cho xã hội.
Về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, mặc dù không được quy định là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm theo quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành. Tuy nhiên, dấu hiệu này lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của người phạm tội và là một trong những dấu hiệu không thể thiếu trong yếu tố chủ thể của tội phạm là cá nhân bên cạnh dấu hiệu “năng lực trách nhiệm hình sự” như đã nêu trên. BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm, rõ ràng, minh bạch và thực hiện kết hợp chính sách phân hóa và nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự nước ta, cũng như các công ước quốc tế của Liên hợp quốc về bảo vệ trẻ em, người chưa thành niên. BLHS năm 2015 cũng đã quy định rõ các tội danh cụ thể thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, trong đó, đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì người từ đủ 14 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Dù BLHS hiện hành đã có quy định như trên, nhưng trong thực tiễn xét xử hầu như vẫn chưa có vụ án hiếp dâm nói chung và hiếp dâm người dưới 16 tuổi nói riêng nào mà chủ thể thực hành tội phạm là nữ giới. Do đó, trong tư tưởng của chính những nhà làm luật cũng đang có nhiều luồng ý kiến khác nhau. Trong đó, có không ít ý kiến bảo vệ quan điểm cho rằng nữ là phái yếu không thể là chủ thể của tội hiếp dâm, trừ trường hợp là đồng phạm.
Theo quan điểm của tác giả, việc nữ giới dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nam giới để thực hiện hành vi giao cấu hoặc trái với ý muốn của họ là điều khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, nữ giới vẫn hoàn toàn có thể là chủ thể thực hiện hành vi hiếp dâm người khác, chẳng hạn như dùng “thủ đoạn khác” để giao cấu hoặc quan hệ tình dục trái với ý muốn của nạn nhân là người dưới 16 tuổi như cho nạn nhân uống thuốc kích dục hoặc sử dụng dụng cụ tình dục để thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với nạn nhân … thì trong các trường hợp này hành vi của nữ giới có thể coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, nữ giới có thể là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi trong trường hợp đồng phạm. Dù không phải là người thực hành thì nữ giới cũng có thể bị coi là phạm tội nếu có hành vi cố ý cùng thực hiện tội hiếp dâm với vai trò là người tổ chức, người xúi giục hoặc người giúp sức. Vì vậy, việc quy định chủ thể của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi là “người nào” tức bất cứ người nào, không phân biệt là nam hay nữ như hiện nay là phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
2.4. Mặt chủ quan của tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi:
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi lỗi là dấu hiệu bắt buộc và được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Tuy nhiên, đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc nên việc thấy trước được hậu quả hay không không đặt ra xem xét.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Động cơ phạm tội nói chung đều có ảnh hưởng đến tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Nhưng hướng ảnh hưởng cũng như mức độ ảnh hưởng đó không giống nhau trong tất cả các trường hợp. Do vậy, động cơ phạm tội có thể được quy định là dấu hiệu định tội, dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ hoặc chỉ là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nói chung. Trong một số ít trường hợp, động cơ phạm tội được quy định là dấu hiệu của CTTP cơ bản, cho phép phân biệt tội phạm với không phải là tội phạm. Tuy nhiên, đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Đối với tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi thì mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc.