Các yếu tố ảnh hưởng đến đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động của phòng Tư pháp: Yếu tố pháp lý, yếu tố kinh tế, xã hội.
Mục lục bài viết
1. Cơ sở pháp lý:
Căn cứ pháp lý thành lập Phòng Tư pháp:
Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Nghị định 24/2014/NĐ-CP Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Căn cứ
Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Căn cứ Thông tư số 07/2020/TT-BTP ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện;
Căn cứ Quyết định số 04/2010/QĐ-UBND ngày 31 tháng 5 năm 2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh Điện Biên về việc phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trên địa bàn tỉnh Điện Biên.
2. Đội ngũ cán bộ, công chức:
Đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo giữ vững chính trị – xã hội để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới “Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
Nếu như Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, thì đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là lực lượng quan trọng để vận hành cỗ máy hành chính Nhà nước, giúp bộ máy cơ quan hành chính nhà nước vận hành thông suốt từ Trung ương đến địa phương. Trong nền hành chính của bất kỳ quốc gia nào thì cán bộ, công chức luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước. Trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Nhà nước ta hiện nay đòi hỏi phải xây dựng bộ máy cán bộ, công chức phải chuyên nghiệp, hiện đại, nhằm trở thành lực lượng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Do mỗi cơ quan nhà nước khác nhau trong hệ thống tổ chức bộ máy của nhà nước được pháp luật quy định có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm khác nhau, do đó đội ngũ cán bộ, công chức trong mỗi cơ quan nhà nước có đặc trưng nghề nghiệp khác nhau nhưng cũng có điểm giống nhau trong hoạt động công vụ là phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước, nên việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là yêu cầu thiết yếu, then chốt quyết định sự thành bại của cách mạng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là người mang chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được.
Thực tế đã chứng minh cho thấy những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, của nhà nước đều do cán bộ, công chức nghiên cứu, đề xuất và đều do cán bộ, công chức triển khai tổ chức hướng dẫn nhân dân thực hiện. Như vậy, có thể khẳng định cán bộ là cái gốc của mọi công việc, là nhân tố quyết định thành hay bại của công việc xây dựng và phát triển đất nước trong từng thời kỳ.
Trong những năm vừa qua, hoạt động cải cách hành chính luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo quyết liệt, coi đây là một trong những nội dung quan trọng trong công cuộc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trọng tâm của cải cách hành chính là: “Cải cách thể chế về xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách chế độ tiền lương; cải cách dịch vụ hành chính công”.
Phòng Tư pháp cấp huyện đang được tiếp tục kiện toàn về tổ chức bộ máy, cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mới được giao. Phòng Tư pháp cũng tiếp tục được mở rộng chức năng tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật (bổ sung theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Thông tư số 07/2020/TT-BTP ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; Về tổ chức, biên chế, Phòng Tư pháp có 01 Trưởng phòng, không quá 02 Phó Trưởng phòng và các công chức.
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động to lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường và kể cả vai trò của cán bộ công chức nói chung, cán bộ, công chức cấp cơ sở nói riêng. Chính điều này, đã mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là “phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở giỏi về chuyện môn nghiệp vụ, có trình độ quản lý nhà nước phù hợp với vị trí việc làm, có kiến thức chuẩn về tin học, ngoại ngữ, có khả năng tiếp nhận các xu thế công nghệ mới, biết áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước ở địa phương, thay đổi tư duy từ quản lý – cai trị sang tư duy hỗ trợ, phục vụ, kiến tạo, sáng tạo, đồng hành thúc đẩy sự phát triển, tập trung xây dựng chính quyền tương tác, đối tác, liêm chính, kiến tạo, vì nhân dân phục vụ”.
3. Vị trí, vai trò của Phòng Tư pháp:
Với vị trí là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện, phòng Tư pháp được pháp luật quy định có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác Tư pháp khác theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ khác do Ủy ban nhân dân huyện giao. Những nhiệm vụ của phòng Tư pháp thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện đang thực hiện đã góp phần bảo đảm cho Hiến pháp, pháp luật được thực thi có hiệu quả, bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật. Do đó, vị trí vai trò của phòng Tư pháp là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của phòng Tư pháp.
Sau nhiều năm cải cách hành chính nhà nước, số lượng công chức trong các cơ quan tổ chức hành chính thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện chiếm số lượng lớn nhất trong tổng biên chế công chức trong các cơ quan, tổ chức hành chính nhà nước ở nước ta và hàng năm đã giảm dần về số lượng (Bảng 1.1) theo hướng tinh giảm biên chế. Tuy nhiên, còn một bộ phận không nhỏ công chức năng lực còn hạn chế chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới của đất nước và suy thoái về phẩm chất, đạo đức, thiếu tu dưỡng rèn luyện bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về lối sống, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, hách dịch, cửa quyền, quan liêu, xa rời quần chúng nhân dân.
Trong bất kỳ giai đoạn nào của đất nước cũng luôn cần phải có một đội ngũ cán bộ, công chức vừa có tài, vừa có đức, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Đội ngũ cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong nền hành chính nhà nước, là những người thay mặt cho chính quyền để giải quyết những công việc của nhân dân. Do đó, việc xây dựng, nâng cao chất lượng của đội ngũ công chức đang là vấn đề có ý nghĩa sống còn không chỉ riêng của công cuộc cải cách hành chính mà cả sự nghiệp đổi mới, xây dựng bảo vệ đất nước. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, có năng lực, chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm, đạo đức cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
4. Vị trí của Trưởng phòng Tư pháp:
– Trưởng phòng Tư pháp là người đứng đầu Phòng Tư pháp. Người đứng đầu phải có năng lực, chuyên môn cũng như kinh nghiệm lãnh đạo, dẫn dắt.
– Trưởng phòng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn trước người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập về toàn bộ hoạt động của Phòng. Các trách nhiệm được xác định tương ứng trong hiệu quả lãnh đạo, quản lý cũng như định hướng hoàn thành nhiệm vụ được phân công.
– Phòng tư pháp thực hiện các công việc chuyên môn về Tư pháp, đây là cơ quan giúp việc của Ủy ban nhân dân cấp huyện. Do đó trưởng phòng tư pháp phải xác định được nhiệm vụ, mục tiêu lãnh đạo và hoạt động tương ứng của mình.
– Trưởng phòng lãnh đạo toàn diện, tổ chức, điều hành, kiểm tra mọi hoạt động của Phòng (bao gồm cả bộ phận trực thuộc). Hoạt động lãnh đạo này có sự tham gia hỗ trợ, giúp việc của các Phó phòng tư pháp. Từ đó mang đến chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của người lãnh đạo, của phòng trong nhiệm vụ chung.
– Việc quản lý, điều hành phân công nhiệm vụ đối với viên chức đang công tác tại Phòng Tư do Trưởng phòng đảm nhiệm. Do đó, mà Trưởng phòng phải có năng lực, kinh nghiệm để thực hiện hiệu quả hoạt động lãnh đạo. Phải cho thấy năng lực, tư duy dùng người. Bên cạnh các chính sách, các định hướng vạnh ra trong kế hoạch hoàn thành nhiệm vụ chung. Từ đó tiến hành giám sát, phân công để hoàn thành tốt các nhiệm vụ chung đó”.
5. Nhu cầu của xã hội về hoạt động tư pháp:
Trước nhu cầu của sự phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng cao thì nhu cầu về hoạt động Tư pháp hành chính ngày càng nhiều và rất cần thiết để phục vụ cho công tác quản lý nhà nước như: Hoạt động công chứng, chứng thực, khai sinh, khai tử, kết hôn, chứng nhận các quyền về tài sản, trợ giúp pháp lý, công tác xã hội trong lĩnh vực tư pháp cho những đối tượng là người yếu thế trong xã hội về vấn đề Bảo trợ xã hội…Tuy nhiên trong những hoạt động này vẫn còn tồn tại chưa khắc phục được như: Tình trạng nhũng nhiễu, gây khó khăn, giải quyết không đúng hạn. Tình trạng tiêu cực trong công chứng, chứng thực vẫn còn tồn tại như công chứng, chứng thực không đúng trình tự, thủ tục; công chức, chứng thực, trái pháp luật, do đó đã có một số cán bộ công chứng, chứng thực bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội và ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật phát sinh trong các lĩnh vực nêu trên, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực, hộ tịch, hôn nhân và gia đình. thống nhất các trình tự, thủ tục để tổ chức, cá nhân nắm rõ và thực hiện theo luật định; đồng thời tăng cường công tác quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; có biện pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát để ngăn chặn xử lý kịp thời những hành vi vi phạm.
Thực trạng cho thấy trong đời sống hàng ngày luôn tồn tại nhiều mâu thuẫn cần phải giải quyết do đó cần phải có sự hỗ trợ của pháp lý từ nhà nước để giải quyết, trong đó phòng Tư pháp thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, triển khai những quy định của pháp luật đến nhân dân để nhân dân hiểu biết và thực hiện đúng pháp luật qua đó sẽ góp phần giải quyết kịp thời những tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân.
Do đó, Phòng tư pháp là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, chịu sự quản lý toàn diện, trực tiếp của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Tư pháp. Phòng tư pháp có chức năng: tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, chứng thực, hộ tịch, trợ giúp pháp lý, hoà giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn trong lĩnh vực công tác tư pháp theo sự uỷ quyền của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nhằm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, góp phần ổn định an ninh trật tự, thúc đẩy kinh tế.
Hệ thống các cơ quan tư pháp bao gồm: ở cấp trung ương có Bộ Tư pháp, cấp tỉnh có Sở Tư pháp cấp huyện có Phòng Tư pháp. Cấp xã không có cơ quan tư pháp với tính cách là một cơ quan chuyên môn hoàn chỉnh mà chỉ có công chức tư pháp – hộ tịch. Cần phải phân biệt hệ thống cơ quan tư pháp, cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân với hệ thống cơ quan tư pháp – xét xử. Ở Việt Nam cơ quan tư pháp – xét xử đó là hệ thống tòa án. Các cơ quan tư pháp với tính cách là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp là cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính – tư pháp – xã hội của địa phương phát triển.
6. Cải cách hành chính nhà nước:
Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2011-2020, Đảng ta đã xác định, cải cách hành chính là một trong 3 khâu đột phá để phát triển đất nước. Qua đó, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả, tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước các cấp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế. Cải cách hành chính tạo tiền đề, thúc đẩy sự phát triển đồng bộ trên nhiều lĩnh vực trong triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính các cấp từ Trung ương đến địa phương. Đồng thời, nâng cao vị thế, năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và xu thế toàn cầu hóa.
Cải cách hành chính là những nỗ lực có chủ định nhằm tạo nên những thay đổi cơ bản bên trong hệ thống hành chính nhà nước thông qua các cuộc cải cách hoặc thay đổi các phương thức để cải tiến ít nhất một trong những yếu tố cấu thành nền hành chính nhà nước. Nội dung chủ yếu của cải cách hành chính là cải cách về tổ chức bộ máy, nhân sự, quy trình và công vụ cũng như các biện pháp thích ứng của hành chính công nhằm tạo ra các cơ quan hành chính hiệu quả, thể chế hóa các thẩm quyền hành chính một cách rõ ràng, đơn giản hóa hành chính và gần dân. Do đó, cải cách hành chính nhà nước là góp phần tạo nên những thay đổi trong các yếu tố cấu thành của nền hành chính nhằm làm cho các cơ quan hành chính nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội tốt hơn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc cải cách nền hành chính nhà nước, do đó công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước ở Việt Nam đã được thực hiện từ những năm 1986 đến nay và đã góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền đó là:
Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các luật mới và các văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; sửa đổi, bổ sung luật cán bộ, công chức và
Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tục hành chính được cải cách theo hướng một cửa và một cửa liên thông; đã cắt, giảm, rút gọn được nhiều thủ tục hành chính so với trước kia, đồng thời tiếp tục xem xét để cắt giảm, rút gọn bớt các thủ tục hành chính còn đang rườm rà, phức tạp, chồng chéo. Mẫu hóa được cơ bản các loại giấy tờ hành chính và thực hiện công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiền hà, tham nhũng của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của tổ chức, công dân.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nêu nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhấn mạnh tinh thần đổi mới với phương châm “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ nhân dân, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo”.
Do bộ máy hành chính nhà nước ta được tổ chức theo ngành chức năng kết hợp với quản lý theo địa phương nên trong giai đoạn cải cách hành chính nhà nước, bộ máy hành chính Nhà nước ở địa phương trong đó có tổ chức hoạt động phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện đã và đang được tiếp tục củng cố, kiện toàn theo hướng tinh giảm về số lượng, với cơ cấu tổ chức bộ máy gọn nhẹ, khoa học. Tập trung đẩy mạnh cải cách công vụ, công chức, xây dựng đội ngũ công chức, viên chức có đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, xử lý nghiêm những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực của công chức, viên chức trong thực thi công vụ, giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp.
Từ những kết quả đạt được của cải cách hành chính trong những năm qua cho thấy, cần phải sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện cho phù hợp với tiến trình cải cách hành chính, cải cách Tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.