Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ:
1.1. Khái niệm biện pháp ngăn chặn:
Trong hệ thống các biện pháp mang tính cưỡng chế trong tố tụng hình biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Các BPNC mang tính cưỡng chế nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Chính vì tính chất quan trọng của các BPNC mà Nhà nước ta rất quan tâm đến chế định này của luật TTHS. Trong luật thực định chưa có quy phạm nào định nghĩa giải thích thuật ngữ BPNC, còn trong khoa học luật tố tụng hình sự có nhiều quan niệm khác nhau về biện pháp ngăn chặn, cụ thể:
Từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông của Nhà xuất bản “Sách pháp lý” Matxcova, 1973 giải thích rằng:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự do điều tra viên, dự thẩm viên, kiểm sát viên và
Từ điển Luật học (2006) của nhà xuất bản tư pháp giải thích rằng: Biện pháp ngăn chặn là:
Biện pháp cưỡng chế về mặt tố tụng hình sự áp dụng khi có đủ căn cứ đối với bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Cuốn “Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự” của Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (năm 1994) lại giải thích rằng BPNC là một loại biện pháp do cơ quan điều tra, VKS và Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị kết án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc tiếp tục phạm tội. BPNC gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm: BPNC là biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Có thể thấy, những khái niệm trên đã phản ánh được những dấu hiệu đặc trưng của BPNC. Tổng hợp từ những quy định của BLTTHS và những khái niệm nêu trên, tác giả cho rằng: BPNC là những biện pháp cưỡng chế được quy định trong BLTTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người liên quan đến việc thực hiện tội phạm chưa bị khởi tố khi có căn cứ theo quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
BLTTHS năm 2015 quy định những BPNC gồm: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Mỗi BPNC có những quy định cụ thể về đối tượng, thẩm quyền, thủ tục áp dụng, do đó tùy từng trường hợp để áp dụng BPNC để đạt hiệu quả trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.2. Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ:
Tạm giữ là một trong các BPNC của TTHS có tính nghiêm khắc cao trong số các BPNC. Tuy nhiên, biện pháp này không phải là hình phạt bởi vì mục đích của nó cũng như mục đích của BPNC nói chung, không nhằm trừng trị người phạm tội hay giáo dục cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN mà nhằm ngăn chặn bị can tiếp tục phạm tội, bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách thuận lợi, nhanh chóng. Biện pháp tạm giữ không được thực hiện nhằm tước bỏ quyền tự do của bị can, bị cáo mà chỉ nhằm hạn chế tạm thời quyền tự do cá nhân, quyền tự do đi lại và một số quyền tự do cá nhân khác như tự do ngôn luận, hội họp, hội họp … Khi bàn về BPNC tạm giữ, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Có quan điểm cho rằng:
Tạm giữ là một BPNC của TTHS hạn chế tự do thân thể của công dân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc trường hợp phạm tội quả tang và đã có quyết định tạm giữ nhưng chưa được khởi tố nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội cản trở hoạt động điều tra [30]. Quan điểm trên phản ảnh khá đầy đủ về tạm giữ, để cập đến đối tượng áp dụng, căn cứ, thẩm quyền áp dụng của biện pháp này. Tuy nhiên, quan điểm trên chưa nêu lên được điểm đặc trưng sự nghiêm khắc của biện pháp tạm giữ so với các BPNC khác – đó là cách ly người bị buộc tội ra bên ngoài xã hội trong một khoảng thời gian, hạn chế một số quyền tự do của họ. Định nghĩa này đã đề cập đến chủ thể có thẩm quyền là cơ quan nhà nước, tuy nhiên chưa cụ thể bởi không nêu rõ là cơ quan tiến hành tố tụng mà chỉ nói chung chung là cơ quan nhà nước, hơn nữa mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình nhưng thông qua những chủ thể cụ thể chứ bản thân các cơ quan này không thể tự thực hiện được. Theo quy định của pháp luật, việc ra lệnh hay quyết định tạm giam thuộc về những người có thẩm quyền nhất định trong các cơ quan tiến hành tố tụng và những người này sẽ phải chịu trách nhiệm đối với văn bản do mình ban hành.
Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra khái niệm:
Tạm giữ là BPNC do CQTHTT có thẩm quyền quyết định tước tự do thân thể trong thời hạn nhất định đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang nhằm bảo đảm cho cơ quan điều tra có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để có cơ sở khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do người bị bắt.
Với khái niệm này, biện pháp tạm giữ đã được thể hiện được về chủ thể áp dụng là CQTHTT; đối tượng áp dụng là người bị bắt; đặc trưng cơ bản của tạm giữ là hạn chế quyền con người và mục đích của tạm giữ là để bảo đảm cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng. Khái niệm chưa nêu rõ về chủ thể áp dụng mà chỉ nói chung chung là CQTHTT.
Theo tác giả Nguyễn Mai Bộ thì:
Tạm giữ là BPNC trong TTHS thể hiện việc người hoặc cơ quan có thẩm quyền quyết định tước tự do với thời gian ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người có lệnh truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, xác minh để xác định việc truy cứu trách nhiệm hình sự (khởi tố bị can) đối với họ.
Quan điểm trên đã nêu được khá đầy đủ về chủ thể có thẩm quyền, các dấu hiệu về tính chất cưỡng chế, đối tượng áp dụng, trường hợp áp dụng cũng như mục đích áp dụng biện pháp tạm giữ nhưng chưa chỉ ra được đầy đủ căn cứ áp dụng biện pháp này.
Theo tác giả đã nêu được:
Tạm giữ là BPNC trong TTHS do người có thẩm quyền của CQĐT và các cơ quan khác do pháp luật quy định áp dụng, tạm thời hạn chế tự do thân thể trong thời gian ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã, nhằm ngăn chặn tội phạm, hành vi cản trở hoạt động điều tra của người bị tạm giữ, bảo đảm cho CQĐT có thời gian tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu để trên cơ sở đó đưa ra các quyết định tố tụng như khởi tố bị can, tạm giam, áp dụng biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho họ.
Theo tác giả đánh giá, quan điểm này đã nêu được chính xác bản chất pháp lý của biện pháp tạm giữ là biện pháp cưỡng chế trong TTHS thể hiện ở việc tạm thời hạn chế quyền tự do cá nhân của người bị áp dụng nó, ngoài ra cũng chính xác về chủ thể áp dụng, đối tượng và mục đích áp dụng. Tuy nhiên, hạn chế của quan điểm này là do căn cứ vào quy định của BLTTHS năm 2003 nên vẫn xác định một trong những đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ là “người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 117 của BLTTHS hiện hành thì đối tượng của biện pháp tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Những khái niệm mà các tác giả trên đưa ra đều nhấn mạnh vào mục đích của biện pháp này là ngăn chặn sự bỏ trốn, gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Qua những quan điểm ở trên cùng với việc phân tích những quan điểm đó cho thấy, nếu để đưa ra một khái niệm đầy đủ về BPNC tạm giữ thì định nghĩa gồm có các nội dung sau: Bản chất của tạm giữ là BPNC chỉ áp dụng trong TTHS với đặc trưng là cách ly đối tượng áp dụng với xã hội trong khoảng thời gian nhất định tại cơ sở giam giữ do bị tước tự do, sẽ bị hạn chế một số quyền con người cơ bản, thiết thân cũng như quyền công dân như quyền ứng cử hoặc hạn chế một số quyền con người cơ bản cung như quyền công dân như quyền tự do đi lại và cư trú, quyền tự do ngôn luận, hội họp, biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng, … trong thời gian bị giam giữ; đối tượng áp dụng của tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã; thẩm quyền áp dụng là người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án; căn cứ áp dụng là những căn cứ do BLTTHS quy định; mục đích áp dụng của biện pháp này là hạn chế một số quyền nhất định của con người, ngăn chặn tiếp tục phạm tội hoặc gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra quan điểm về khái niệm BPNC tạm giữ như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, tạm thời hạn chế quyền tự do của người bị áp dụng bằng việc giữ tại cơ sở giam giữ trong thời gian ngắn nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn nguy cơ gây khó khăn, cản trở cho hoạt động khởi tố, điều tra và tạo điều kiện cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định căn cứ phân loại, xử lý phù hợp trong giai đoạn đầu của quá trình giải quyết vụ án hình sự”.
2. Ý nghĩa của việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giữ:
2.1. Ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án hình sự
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên đấu tranh phòng, chống tội phạm đòi hỏi phải có những biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, trong đó có BPNC tạm giữ. Tạm giữ không phải là hình phạt và không có mục đích trấn áp, trừng trị những người bị áp dụng. Tuy vậy, việc áp dụng quy định này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do cá nhân. Người bị áp dụng BPNC này bị cách ly với xã hội trong một thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại để cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu, thu thập tài liệu, chứng cứ làm căn cứ đề ra quyết định khởi tố hay không khởi tố, trả tự do cho người bị tạm giữ. Quy định và áp dụng biện pháp tạm giữ trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn nào đó trong đấu tranh phòng chống tội phạm không xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ pháp luật và đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi áp dụng, thay đổi hay huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn nào đó về các phương diện như: đối tượng, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng… trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người (đối tượng của các biện pháp ngăn chặn). Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. BLTTHS đã quy định cụ thể, chặt chẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giữ cũng như hạn chế khả năng lạm dụng biện pháp tạm giam không đúng quy định.
Biện pháp tạm giữ không chỉ thể hiện tính cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi xâm hại các quyền của công dân mà còn là một phương tiện hữu hiệu để bảo vệ các quyền đó khi nó có nguy cơ bị xâm hại hoặc đang bị xâm hại. Biện pháp tạm giữ tuy hạn chế một số quyền của công dân nhưng mặt khác lại bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các công dân khác.
Việc áp dụng biện pháp tạm giữ có ý nghĩa quan trọng trong việc ngăn chặn nguy cơ người bị buộc tội tiếp tục phạm tội, ngăn ngừa nguy cơ người bị buộc tội gây khó khăn cho hoạt động, tạo điều kiện cho cơ quan tiến hành tố tụng xác minh làm rõ sự việc phạm tội … giúp cho pháp luật được thực thi, tránh trường hợp bỏ lọt tội phạm, đảm bảo tính pháp chế của nhà nước.
2.2. Ý nghĩa đối với việc đảm bảo quyền con người, quyền công dân:
Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế-chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khoẻ, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc của cuộc sống xã hội. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một cách kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Trong khi đó, người thực hiện hành vi phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý mà mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên thường muốn che giấu và trốn tránh không muốn hành vi của mình gây ra bị phát hiện, bị xử lý. Họ cố gắng tìm mọi cách để né tránh việc xử lý của pháp luật. Do vậy, ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội là một tất yếu khách quan. Việc quy định và đảm bảo thực hiện biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể quan điểm đó của Nhà nước. Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng hình sự góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật, thể hiện sự chuyên chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh, phòng ngừa chống tội phạm.Bởi lẽ, với tính đặc thù của biện pháp này là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án, từ đó hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, giúp cho các hoạt động này được tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Ngoài ra, tạm giữ với đặc trưng riêng biệt là việc hạn chế quyền tự do thân thể, quyền tự do đi lại của mỗi con người, khi áp dụng đúng biện pháp ngăn chặn này góp phần ngăn chặn kịp thời những hành vi phạm tội, hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Nếu áp dụng không đúng sẽ gây ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, gây hoang mang trong dư luận và dễ bị các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc để chống phá Nhà nước. Vì vậy, việc quy định biện pháp ngăn chặn tạm giữ giúp cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng thống nhất, tránh được tình trạng áp dụng tùy tiện, tràn lan. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, tước bỏ điều kiện tiếp tục thực hiện tội phạm của người phạm tội cũng là góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích của cá nhân. Tóm lại, xét trên khía cạnh đó, quyền con người, quyền công dân sẽ được đảm bảo khi áp dụng biện pháp tạm giữ một cách kịp thời để đảm bảo quyền con người, quyền công dân, không bỏ lọt tội phạm để ngăn chặn tội phạm tiếp tục gây ảnh hưởng đến các chủ thể khác trong xã hội.
Mặt khác, việc quy định chặt chẽ các biện pháp tạm giữ sẽ đem đến sự đảm bảo cho việc hạn chế quyền tự do của công dân theo tinh thần “đúng người, đúng tội”, tránh đi các hành vi lạm dụng thẩm quyền để xâm phạm, tước đi quyền con người của công dân trái pháp luật, đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội. Mặc dù có thể nhỏ về số lượng nhưng đến thời điểm hiện nay, vẫn còn nhiều trường hợp lạm dụng biện pháp tạm giữ để thực hiện các hành vi sai trái. Trên khía cạnh này, việc áp dụng biện pháp một cách đúng đắn sẽ tạo ra đường lối để tránh đi sự oan sai trong việc xử lý tội phạm, tránh đi những sự “trừng phạt” có thể gây ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân trái với quy định của pháp luật, gây ra tình trạng mất niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước.