HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo. Các hình thức sửa bản án hình sự sơ thẩm có lợi cho bị cáo.
Sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo là thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm thay đổi nội dung của bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo so với tình trạng mà bản án sơ thẩm đã tuyên. Theo quy định tại khoản 1 Điều 357 BLTTHS năm 2015, khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm như sau:
Mục lục bài viết
- 1 1. Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo:
- 2 2. Không áp dụng hình phạt bổ sung:
- 3 3. Không áp dụng biện pháp tư pháp:
- 4 4. Áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn:
- 5 5. Giảm hình phạt cho bị cáo:
- 6 6. Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng:
- 7 7. Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn:
- 8 8. Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo:
1. Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt cho bị cáo:
Miễn trách nhiệm hình sự chưa được định nghĩa chính thức trong BLHS, tuy nhiên có thể hiểu miễn trách nhiệm hình sự là “trường hợp không buộc một người đáp ứng các điều kiện do luật định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người đó”. Lưu ý, cần phân biệt miễn trách nhiệm hình sự với loại trừ trách nhiệm hình sự do hành vi không cấu thành tội phạm. BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự trong cả Phần chung và Phần các tội phạm. Theo đó, HĐXX phúc thẩm có quyền miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo đã bị
Miễn hình phạt là “biện pháp thực hiện trách nhiệm hình sự và là nội dung của quyết định hình phạt, mang tính nhân đạo, khoan hồng trong chính sách hình sự của Nhà nước, được quy định trong luật hình sự do Tòa án quyết định áp dụng trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật đối với người hoặc pháp nhân thương mại bị kết án, khi có những căn cứ và điều kiện luật hình sự quy định”. Miễn hình phạt đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội chỉ đặt ra trong những trường hợp nếu như việc áp dụng hình phạt là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự. Bên cạnh việc áp dụng hình phạt đúng đắn, công bằng thì trên thực tế, không phải lúc nào hình phạt được áp dụng đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội đều đem lại lợi ích xã hội thiết thực trong công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội và phòng ngừa tội phạm. Theo đó, HĐXX phúc thẩm có quyền miễn hình phạt cho bị cáo khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 59, Điều 390, Điều 88 BLHS.
2. Không áp dụng hình phạt bổ sung:
BLHS quy định các loại hình phạt bổ sung đối với người và pháp nhân thương mại phạm tội tại khoản 2 Điều 32 và khoản 2 Điều 33. Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được BLHS quy định, do Tòa án áp dụng bổ sung cho hình phạt chính trong bản án kết tội đối với người bị kết án và được thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của họ nhằm củng cố, tăng cường hiệu quả của hình phạt chính và phòng ngừa tội phạm.
HĐXX phúc thẩm cần phải cân nhắc các tình tiết của vụ án; tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đặc điểm nhân thân người phạm tội hoặc việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; yêu cầu phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và quy định của BLHS để xem xét việc áp dụng hình phạt bổ sung của cấp sơ thẩm có đúng, cần thiết hay không. “Hình phạt bổ sung nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính đạt được mục đích của hình phạt, nhưng khi hình phạt chính đã đủ tác dụng để trừng trị, giáo dục, cải tạo người, pháp nhân thương mại phạm tội thì không cần áp dụng hình phạt bổ sung kèm theo”. Trong thực tiễn, do chưa đánh giá hết vai trò, chức năng, công dụng của hình phạt bổ sung trong cải tạo, giáo dục người phạm tội, phòng ngừa tội phạm nên các Tòa án khi áp dụng hình phạt bổ sung còn có trường hợp áp dụng không đúng, vi phạm nội dung, điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt bổ sung làm giảm hiệu quả của hình phạt bổ sung trong áp dụng và thi hành. HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội nếu xét thấy việc áp dụng hình phạt bổ sung của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng hoặc không cần thiết.
3. Không áp dụng biện pháp tư pháp:
Biện pháp tư pháp là “một trong các biện pháp cưỡng chế hình sự ít nghiêm khắc hơn hình phạt, là một dạng của trách nhiệm hình sự do cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp dụng đối với người phạm tội hoặc có hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp nhân thương mại phạm tội nhằm mục đích hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt, giúp cho hình phạt đạt được mục đích tối đa và phòng ngừa tội phạm” HĐXX phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng không áp dụng biện pháp tư pháp đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội nếu xét thấy việc áp dụng biện pháp tư pháp của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, không phù hợp với nhân thân bị cáo.
4. Áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn:
Nếu HĐXX nhận thấy điều, khoản của BLHS áp dụng đối với bị cáo trong bản án sơ thẩm là không đúng, quá nặng so với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thì có thể quyết định sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn. Đây là trường hợp chuyển tội danh thành tội danh khác nhẹ hơn so với tội danh đã tuyên trong bản án sơ thẩm hoặc chuyển sang khoản có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt ban đầu trong cùng một tội. HĐXX phúc thẩm chỉ áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn khi vụ án đã được điều tra đầy đủ, không có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và Tòa án cấp sơ thẩm nhận định, đánh giá không đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chưa xác định đúng động cơ, mục đích phạm tội hoặc sai lầm trong nhận thức về các tình tiết định khung. Tùy từng trường hợp, việc chuyển tội danh hoặc khung hình phạt có thể dẫn tới giảm hình phạt nhưng cũng có thể không đòi hỏi phải giảm hình phạt.
Tội nhẹ hơn có thể được hiểu theo hai nghĩa: tội danh nhẹ hơn quy định tại điều luật khác hoặc loại tội nhẹ hơn quy định trong một điều luật (tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng). Tuy nhiên cũng có trường hợp các khoản khác nhau trong cùng điều luật quy định khung hình phạt nặng, nhẹ khác nhau nhưng thuộc cùng loại tội phạm. Ví dụ, khoản 2 Điều 134 BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 05 năm, khoản 3 Điều này quy định mức cao nhất của khung hình phạt là phạt tù đến 07 năm. Theo quy định tại Điều 9 BLHS thì các trường phạm tội thuộc hai khoản này đều thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Trường hợp áp dụng khoản của BLHS quy định khung hình phạt nhẹ hơn thuộc cùng loại tội phạm cũng cần được coi là áp dụng khoản của BLHS về tội nhẹ hơn.
Tội danh khác nhẹ hơn là trường hợp điều luật quy định trách nhiệm hình sự đối với tội danh khác đó (hình phạt chính, hình phạt bổ sung) nhẹ hơn so với tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng. Tuy nhiên, việc xác định tội nào nặng hơn hay nhẹ hơn thì BLHS không quy định. Trước đây, Nghị quyết số 04/2004/NQ- HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn cách xác định thế nào là tội nhẹ hơn tại tiểu mục 2.2 phần II. Hiện nay, chưa có văn bản nào thay thế, sửa đổi, bổ sung cho
5. Giảm hình phạt cho bị cáo:
Nếu HĐXX phúc thẩm nhận thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhân thân của bị cáo hoặc xét thấy mới có thêm những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo, bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. HĐXX phúc thẩm có thể giảm hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung hoặc giảm cả hai loại hình phạt nhưng vẫn giữ nguyên điều, khoản áp dụng đối với bị cáo. Việc giảm hình phạt cho bị cáo phải đảm bảo trong phạm vi cho phép của khung hình phạt hoặc HĐXX phúc thẩm có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng phải đảm bảo các điều kiện theo quy định tại Điều 54 BLHS.
Đối với người phạm tội, HĐXX phúc thẩm chỉ có thể giảm hình phạt chính khi hình phạt chính mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền.
Đối với bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo thì Toà án cấp phúc thẩm không được sửa án sơ thẩm giảm nhẹ mức hình phạt tù nhưng buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, kể cả tù với thời hạn ngắn hơn thời hạn mà Toà án cấp sơ thẩm phạt tù cho hưởng án treo, trừ trường hợp có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng. Với hình phạt bổ sung, đa số các hình phạt HĐXX phúc thẩm đều có thể giảm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân và phạt tiền khi không là hình phạt chính.
Đối với pháp nhân thương mại phạm tội, HĐXX phúc thẩm có thể giảm hình phạt chính khi hình phạt chính mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phạt tiền hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn. Đối với hình phạt bổ sung, HĐXX phúc thẩm có thể giảm đối với các loại hình phạt: cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định, cấm huy động vốn, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính.
Khi giảm hình phạt cho bị cáo, HĐXX phúc thẩm phải ghi rõ lý do, căn cứ giảm trong bản án phúc thẩm. Trong thực tiễn xét xử, nhiều trường hợp áp dụng tùy tiện “tình tiết khác” được quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Nếu HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn đồng thời giảm hình phạt cho bị cáo thì không thuộc trường hợp giảm hình phạt cho bị cáo mà thuộc trường hợp áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn. Nếu HĐXX phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo thì cũng không được coi là giảm hình phạt cho bị cáo vì bản chất của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
6. Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng:
Đây là trường hợp HĐXX phúc thẩm quyết định mức bồi thường thấp hơn mức bồi thường mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định. Nếu HĐXX phúc thẩm nhận thấy mức bồi thường thiệt hại mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định cao hơn so với mức thiệt hại thực tế do tội phạm gây ra thì có quyền giảm mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo hoặc bị đơn dân sự. Khi HĐXX phúc thẩm quyết định giảm mức bồi thường thiệt hại phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. HĐXX phúc thẩm phải xem xét căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nguyên tắc bồi thường thiệt hại, căn cứ xác định thiệt hại để kết luận Tòa án cấp sơ thẩm quyết định mức bồi thường thiệt hại có đúng hay không.
Đồng thời, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 351 BLTTHS năm 2015, HĐXX phúc thẩm không được giảm mức bồi thường thiệt hại nếu như bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt tại phiên tòa vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan bởi quyết định này không có lợi cho họ.
Bản án hoặc quyết định phúc thẩm được coi là không có lợi cho bị hại, đương sự vắng mặt tại phiên tòa là bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng ngược lại kháng cáo của bị hại, đương sự hoặc giảm quyền lợi hoặc tăng nghĩa vụ đối với họ so với bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Việc giảm mức bồi thường thiệt hại không phụ thuộc vào các quyết định của HĐXX phúc thẩm về tội danh, hình phạt và các nội dung khác.
HĐXX phúc thẩm căn cứ vào các quy định về xử lý vật chứng tại Điều 47, 48 BLHS và Điều 106 BLTTHS để xem xét bản án sơ thẩm quyết định xử lý vật chứng đúng hay không. Việc sửa quyết định xử lý vật chứng của HĐXX phúc thẩm không phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng nghị cũng như hướng kháng cáo, kháng nghị về việc xử lý vật chứng của Tòa án cấp sơ thẩm. Nếu quyết định xử lý vật chứng trong bản án sơ thẩm không đúng hoặc không có căn cứ thì cần phải sửa lại theo đúng quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào việc sửa quyết định xử lý vật chứng đó có gây bất lợi cho bị cáo hay những người tham gia tố tụng khác hay không. Việc nhà làm luật quy định quyền sửa quyết định xử lý vật chứng tại khoản 1 Điều 357 cùng các quyền sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo có thể dẫn đến hiểu lầm rằng việc sửa quyết định xử lý vật chứng phải theo hướng có lợi cho bị cáo, tuy nhiên tác giả cho rằng việc quy định như vậy là hợp lý, cho phép HĐXX phúc thẩm có quyền sửa quyết định xử lý vật chúng mà không phụ thuộc vào việc có hay không có kháng cáo, kháng nghị cũng như hướng kháng cáo, kháng nghị bởi việc xử lý vật chứng đúng đắn, chính xác là yêu cầu bắt buộc trong tố tụng hình sự.
7. Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn:
Hệ thống hình phạt đối với người phạm tội và pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 32, 33 BLHS, đều bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung. Đối với các hình phạt chính, BLHS không quy định hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào, tuy nhiên có thể thấy các hình phạt chính trong hệ thống hình phạt được sắp xếp theo thứ tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc.
Việc sắp xếp các hình phạt chính theo trật tự nhất định không chỉ tạo ra tính hệ thống trong quy định về các hình phạt mà còn là căn cứ áp dụng khi việc áp dụng cần có sự so sánh giữa các hình phạt chính. Tính hệ thống của các hình phạt chính cho phép các hình phạt này có thể thay thế cho nhau khi có đủ điều kiện luật định.
Riêng đối với hình phạt trục xuất là hình phạt đặc biệt có liên quan đến chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước có đối tượng áp dụng riêng biệt, khi được áp dụng làm hình phạt chính đối với bị cáo là người nước ngoài trong những trường hợp luật định do yêu cầu chính trị, ngoại giao… thì không thể so sánh mức độ nặng, nhẹ của hình phạt trục xuất với các loại hình phạt chính khác. “Các hình phạt chính có khả năng thay thế cho nhau bởi nội dung của mỗi hình phạt chính có tính độc lập khác biệt so với nội dung của hình phạt bổ sung, đủ để thực hiện được mục đích cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm của hình phạt nói chung”.
Khác với các hình phạt chính, các hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt không được sắp xếp theo một trật tự nhất định như các hình phạt chính. “Các hình phạt bổ sung tuy có mối liên kết chặt chẽ với hình phạt chính nhưng giữa chúng lại không có thể liên kết với nhau theo một trật tự có hệ thống như là hình phạt chính”. Thực tế, rất khó có thể so sánh được hình phạt bổ sung nào nhẹ hơn, ít nghiêm khắc hơn hình phạt bổ sung nào vì các loại hình phạt bổ sung có nội dung trừng trị, giáo dục, cải tạo khác nhau. Mỗi loại hình phạt bổ sung chỉ có khả năng tác động và có hiệu quả đối với một số loại tội phạm cụ thể và chỉ có thể được áp dụng kèm theo một hoặc một số loại hình phạt chính nhất định. Do đó, các hình phạt bổ sung không có khả năng thay thế cho nhau và việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ được giới hạn trong phạm vi các hình phạt chính.
BLHS quy định các loại hình phạt chính rất đa dạng. Sự đa dạng của các hình phạt chính trong hệ thống hình phạt đảm bảo cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt, đảm bảo cho việc xét xử được công bằng, bình đẳng và hợp lý. Ngay trong cùng một điều luật quy định về một tội phạm cụ thể cũng có các loại hình phạt chính khác nhau để áp dụng cho từng trường hợp cụ thể. “Hệ thống hình phạt được ra đời là để đáp ứng yêu cầu của sự tương ứng giữa hành vi phạm tội và biện pháp cưỡng chế”. Nếu HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn đồng thời chuyển sang hình phạt chính khác nhẹ hơn thì không thuộc trường hợp chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn mà thuộc trường hợp áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn.
8. Giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo:
Đây là trường hợp HĐXX phúc thẩm xét thấy không buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Khi xét xử phúc thẩm, HĐXX phúc thẩm nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tuy nhiên trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tài liệu mới, được xác định có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới hoặc căn cứ vào nhân thân bị cáo xét thấy có đủ điều kiện được hưởng án treo thì HĐXX phúc thẩm có quyền giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo. Nếu xét thấy mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng với bị cáo là quá nghiêm khắc thì HĐXX phúc thẩm có quyền giảm mức hình phạt cho bị cáo và nếu bị cáo có đủ các điều kiện được hưởng án treo sau khi được giảm mức hình phạt thì HĐXX phúc thẩm có quyền cho bị cáo hưởng án treo. Việc HĐXX phúc thẩm cho bị cáo hưởng án treo phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 65 BLHS, Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS về án treo và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP.
So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 đã quy định bổ sung căn cứ để HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo: “khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới”. Việc bổ sung quy định như trên là cần thiết và hợp lý, tạo cơ sở pháp lý cho HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo. Thực tiễn công tác xét xử của Tòa án chứng minh rằng HĐXX phúc thẩm không chỉ sửa bản án sơ thẩm khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo mà còn sửa bản án sơ thẩm khi có tình tiết mới. Có trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật tại thời điểm xét xử sơ thẩm nhưng bản án sơ thẩm bị kháng cáo. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm một số tài liệu, có thêm tình tiết giảm nhẹ mới như đã bồi thường toàn bộ thiệt hại, bị cáo lập công lớn…thì HĐXX phúc thẩm vẫn giảm hình phạt cho bị cáo hoặc giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
Đồng thời, BLTTHS năm 2015 đã quy định bổ sung một số trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo so với BLTTHS năm 2003 như: không áp dụng hình phạt bổ sung, không áp dụng biện pháp tư pháp, giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Việc quy định bổ sung các trường hợp nói trên là cần thiết, xuất phát từ thực tiễn xét xử, tạo cơ sở pháp lý cho HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Trước đây, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên hình phạt tù và cho hưởng án treo, dẫn đến thực tiễn xét xử có những trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm vừa có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo, vừa có căn cứ cho bị cáo hưởng án treo. Tòa án căn cứ vào Điều 249 BLTTHS năm 2003 để giảm hình phạt cho bị cáo và căn cứ vào Điều 60 BLHS năm 1999 để cho bị cáo hưởng án treo. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, bản chất của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện nên không thể coi là trường hợp giảm hình phạt được. Để giải quyết vấn đề này, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp giảm hình phạt tù và cho hưởng án treo là hợp lý, đảm bảo căn cứ pháp lý cho HĐXX phúc thẩm khi xem xét giải quyết các vụ án, đảm bảo việc áp dụng thống nhất pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 357, trường hợp VKS kháng nghị hoặc bị hại kháng cáo yêu cầu sửa bản án theo hướng không có lợi cho bị cáo nhưng nếu có căn cứ thì HĐXX vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
Bên cạnh đó, khoản 3 Điều 357 quy định: “Trường hợp có căn cứ, HĐXX phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều này cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị”. “Trường hợp có căn cứ” là khi xác định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới thì mặc dù bị cáo không có kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị thì HĐXX phúc thẩm vẫn có quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho những bị cáo này. Quy định này nhằm bảo đảm sự công bằng trong xét xử, đồng thời thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bị cáo nói chung và những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Đồng thời, so với khoản 2 Điều 249 BLTTHS năm 2003 quy định: “Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị khủng cáo, kháng nghị” là không hợp lý và quá thu hẹp thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm thì BLTTHS năm 2015 quy định HĐXX phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm “theo quy định tại khoản 1 Điều này” đã mở rộng thẩm quyền của HĐXX phúc thẩm, bảo đảm hơn nữa quyền lợi của những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Như vậy, về điều kiện sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo: Thứ nhất, khi có căn cứ sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo, tức là khi có căn cứ xác định bản án sơ thẩm tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo hoặc có tình tiết mới. Thứ hai, việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo không phụ thuộc vào phạm vi và hướng kháng cáo, kháng nghị. HĐXX phúc thẩm có thể sửa bản án theo hướng có lợi cho cao cả trong trường hợp kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng nặng và cả đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Tuy nhiên, việc sửa bản án theo hướng có lợi cho bị cáo theo quy định của BLTTHS năm 2015 có một số bất cập, vướng mắc sau:
Trước hết, khoản 3 Điều 357 BLTTHS năm 2015 quy định cho phép HĐXX phúc thẩm vẫn có thể giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là quy định mới so với BLTTHS năm 2003, tuy nhiên, việc quy định cho HĐXX phúc thẩm có quyền giảm mức bồi thường thiệt hại mà không phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị về bồi thường thiệt hại hay không là không hợp lý. Bởi pháp luật dân sự có một nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận:
Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.
Khi bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại cũng được coi như giữa bị cáo, bị hại hoặc đương sự đã thống nhất ý chí với phán quyết về bồi thường thiệt hại trong bản án sơ thẩm. Khi các bên đã cùng thống nhất ý chí thì việc HĐXX phúc thẩm tự ý giảm mức bồi thường thiệt hại là không hợp lý và không cần thiết, vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận về dân sự, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người được bồi thường. Tác giả Mai Thanh Hiếu cũng cho rằng:
Việc giảm mức bồi thường thiệt hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị là không hợp lý vì không phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, theo đó đương sự tự quyết định về quyền lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lý cần thiết để bảo vệ lợi ích đó.
Đồng thời, quy định giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu giảm mức bồi thường thiệt hại mặc dù có lợi cho bị cáo nhưng lại không có lợi cho bị hại hoặc nguyên đơn dân sự và vi phạm nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và đương sự. Theo nguyên tắc này, Toà án cấp phúc thẩm không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, đương sự nếu không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng không có lợi cho họ. Nguyên tắc này có đối tượng không chỉ là bị cáo mà còn các đương sự khác như bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Bên cạnh đó, quy định tại khoản 2 Điều 357 BLTTHS năm 2015 cho phép HĐXX phúc thẩm giảm mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp chỉ có kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng mức bồi thường thiệt hại còn chưa hợp lý, không phù hợp với nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong khoa học luật tố tụng hình sự trên thế giới là nguyên tắc không làm xấu hơn tình trạng của chủ thể kháng cáo nếu không có kháng cáo hoặc kháng nghị khác theo hướng không có lợi cho họ. Trường hợp chỉ có kháng nghị của VKS yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại mà HĐXX phúc thẩm quyết định giảm mức bồi thường thiệt hại thì tuy có lợi cho bị cáo hoặc bị đơn dân sự nhưng gây thiệt hại cho chủ thể được bồi thường là bị hại hoặc nguyên đơn dân sự không kháng cáo. Trường hợp chỉ có kháng cáo của bị hại yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại mà Tòa án cấp phúc thẩm quyết định giảm mức bồi thường thiệt hại thì tuy có lợi cho bị cáo hoặc bị đơn dân sự nhưng gây thiệt hại cho chủ thể kháng cáo.