Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay Ngân hàng thương mại. Ngân hàng có được tự ý kê biên nhà đất cắm ở Ngân hàng để thanh toán cho khoản vay đến hạn không?
Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay NHTM phải được Tòa án thực hiện một cách chặt chẽ, nghiêm ngặt theo quy định của BLTTDS. Việc thực hiện đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục tố tụng khi giải quyết vụ án không chỉ đảm bảo tính nghiêm minh của Tòa án mà còn đảm bảo cho các đương sự trong vụ án được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, giúp hạn chế tối đa các trường hợp sai lầm khi giải quyết vụ án, đảm bảo cho các bản án, quyết định Tòa án được thi hành bằng quyền lực nhà nước. Do đó, các quy định về thủ tục tố tụng theo quy định của BLTTDS luôn được TAND tỉnh Đồng Tháp tuân thủ triệt để và nghiêm túc trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, hạn chế tối đa các trường hợp bản án, quyết định bị Tòa án cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm hủy, sửa do có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khởi kiện và thụ lý vụ án:
- 2 2. Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án:
- 3 3. Xác định đúng và đầy đủ người tham gia tố tụng:
- 4 4. Xác định nơi cư trú của Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- 5 5. Thực tiễn thu thập, xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ:
- 6 6. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn:
1. Khởi kiện và thụ lý vụ án:
Theo quy định của BLTTDS, việc khởi kiện vụ án dân sự được tiến hành bằng việc người khởi kiện nộp đơn cho Tòa án bằng cách gửi qua dịch vụ bưu chính, thư điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án hoặc nộp trực tiếp tại trụ sở Tòa án có thẩm quyền. Ngày khởi kiện được xác định là ngày nộp đơn khởi kiện trực tiếp tại Tòa án, ngày gửi đơn khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án hoặc ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu chính nơi gửi đơn khởi kiện.
Kèm theo đơn khởi kiện, Người khởi kiện phải có đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo để chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Trong các vụ án tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM, các tài liệu, chứng cứ thông thường gồm hợp đồng tín dụng, HĐTC QSDĐ. Trường hợp người khởi kiện là NHTM thì phải kèm theo các tài liệu, chứng cứ như
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện và trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công xem xét đơn khởi kiện, Thẩm phán phải có một trong các quyết định sau đây:
+ Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện khi đơn khởi kiện có hình thức không phù hợp hoặc không đầy đủ nội dung cơ bản theo quy định tại Điều 189 BLTTDS.
+ Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện khi vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác;
+ Trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện khi vụ việc không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 191 BLTTDS năm 2015.
+ Tiến hành các thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc theo thủ tục rút gọn khi có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Kết quả xử lý đơn của Thẩm phán phải được ghi nhận vào sổ nhận đơn khởi kiện và thông báo ngay cho người khởi kiện được biết. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện hoặc chuyển cho Tòa án khác có thẩm quyền phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc xử lý đơn khởi kiện của Thẩm phán.
2. Xác định thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án:
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM được xác định theo theo loại việc, theo lãnh thổ và theo tòa án các cấp.
2.1. Thẩm quyền của Tòa án theo loại vụ việc:
Như Tác giả đã phân tích tại Chương 1, HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được xác lập giữa NHTM với cá nhân, tổ chức, hộ gia đình. NHTM là pháp nhân thương mại, hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, có mục đích tìm kiếm lợi nhuận nên để xác định những vụ án tranh chấp về HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM là vụ án Dân sự hay vụ án Kinh doanh thương mại thì Thẩm phán phải căn cứ các yêu cầu khởi kiện của Người khởi kiện, đặc điểm pháp lý của chủ thể vay tiền trong Hợp đồng tín dụng và mục đích của Hợp đồng tín dụng hướng đến. Việc xác định đúng loại quan hệ tranh chấp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung và pháp luật về tố tụng trong việc giải quyết vụ án vì thời hạn giải quyết và văn bản pháp luật áp dụng khi giải quyết hai loại tranh chấp về dân sự và kinh doanh thương mại là khác nhau.
Nếu chủ thể vay tiền trong Hợp đồng tín dụng có đăng ký kinh doanh và Hợp đồng tín dụng có mục đích tìm kiếm lợi nhuận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thì đây là tranh chấp Kinh doanh thương mại. Trong trường hợp này, nếu HĐTC quyền sử dụng để bảo đảm tiền vay của Hợp đồng tín dụng được xác lập giữa chủ thể không có đăng ký kinh doanh và NHTM thì Tòa án vẫn phải xác định đây là vụ án Kinh doanh thương mại.
Nếu chủ thể vay tiền trong Hợp đồng tín dụng không có đăng ký kinh doanh hoặc Hợp đồng tín dụng không có mục đích tìm kiếm lợi nhuận thì đây là tranh chấp dân sự. Trong trường hợp này, nếu HĐTC quyền sử dụng để bảo đảm tiền vay của Hợp đồng tín dụng được xác lập giữa chủ thể có đăng ký kinh doanh và NHTM thì tòa án vẫn phải xác định đây là vụ án dân sự.
Trường hợp trong có phát sinh các yêu cầu giải quyết về Hợp đồng tín dụng và HĐTC QSDĐ đối với QSDĐ đã được thế chấp để bảo đảm tiền vay tại NHTM thì Tòa án vẫn phải xác định đây là vụ án dân sự.
2.2. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ:
Căn cứ các quy định tại khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định theo thứ tự ưu tiên như sau:
– Vụ án có đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết. Nếu vụ án có nhiều bất động sản thì Nguyên đơn có quyền khởi kiện tại Tòa án nơi có một trong nhiều bất động sản đó.
– Vụ án mà đối tượng tranh chấp không phải là bất động sản, Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi cư trú hoặc có trụ sở của bị đơn. Nếu Bị đơn có nhiều địa chỉ hoặc trụ sở thì Nguyên đơn có quyền khởi kiện tại Tòa án nơi có một trong những địa chỉ, trụ sở đó.
Vụ án mà đối tượng tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì Nguyên đơn có quyền khởi kiện tại Tòa án nơi thực hiện hợp đồng đó.
– Chỉ lựa chọn Tòa án nơi nguyên đơn cư trú hoặc có trụ sở nếu các bên có thỏa thuận hoặc Bị đơn có trụ sở, địa chỉ ở nước ngoài.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm vay tại NHTM, nguyên đơn thường là NHTM và Bị đơn là bên vay tiền, do đó Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nơi Bị đơn có địa chỉ, trụ sở. Mặc dù vụ án có liên quan đến tài sản thế chấp là QSDĐ nhưng Tòa án không áp dụng nguyên tắc xác định thẩm quyền là nơi có bất động sản tranh chấp vì trong trường hợp này, tranh chấp quan trọng nhất chính là nghĩa vụ hoàn trả nợ gốc và nợ lãi của bên vay. Tuy trong quá trình giải quyết vụ án có thể xảy ra tranh chấp về QSDĐ nhưng cũng không làm thay đổi về thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Chỉ trong trường hợp Tòa án thụ lý vụ án do có yêu cầu khởi kiện về tranh chấp QSDĐ được thế chấp để đảm tiền vay, sau đó có những yêu cầu liên quan đến Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp QSDĐ thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là nơi có QSDĐ bị tranh chấp trong vụ án.
2.3. Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp tỉnh:
Những vụ án đến tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM đa phần thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp huyện. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp huyện sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho TAND cấp tỉnh giải quyết theo thẩm quyền nếu có đủ cơ sở để xác định có người tham gia tố tụng là người nước ngoài, người Việt Nam định cư tại nước ngoài hoặc vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương, nếu thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án cấp huyện, Tòa án cấp tỉnh vẫn có thẩm quyền giải quyết (Điều 32a, 33, 34 và 35 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung 2011 và các Điều 29, 30 Luật Tố tụng hành chính năm 2010).
3. Xác định đúng và đầy đủ người tham gia tố tụng:
Khi giải quyết vụ án, Toà án phải xác định đầy đủ những người tham gia tố tụng trong vụ án bao gồm nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Bên cạnh Nguyên đơn là chủ thể khởi kiện và Bị đơn là chủ thể bị Nguyên đơn khởi kiện, được xác định tại Đơn khởi kiện của Nguyễn đơn thì Tòa án phải xác định đúng và đầy đủ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Việc bỏ sót Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi giải quyết vụ án được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, dẫn đến hậu quả Bản án, quyết định của Tòa án có thể bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án vụ án tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM thường có nhiều người tham gia tố tụng với tư cách là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng việc xác định đúng và đầy đủ là rất khó khăn, dẫn đến hệ quả là quan hệ tranh chấp trở nên phức tạp và thời gian giải quyết vụ án kéo dài. Thường gặp nhất là trường hợp bên thứ ba đã dùng tài sản là QSDĐ của mình để bảo đảm tiền vay cho bên vay tiền trong Hợp đồng tín dụng. Ngoài ra, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể là những người đang trực tiếp, quản lý, sử dụng hoặc có tài sản là vật kiến trúc, cây lâu năm trên thửa đất. Trong rất nhiều trường hợp, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người có QSDĐ nhưng không ký kết hợp đồng bảo đảm; Là người người nhận tài sản là QSDĐ trong những giao dịch chuyển QSDĐ khác. Trong một số trường hợp ít gặp hơn khi chỉ có 01 QSDĐ nhưng được thế chấp ở nhiều NHTM khác nhau để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ thì các NHTM này đều được xác định là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
4. Xác định nơi cư trú của Bị đơn, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã quy định việc Tòa án không trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện (Điểm e khoản 1 Điều 192 BLTTDS), nhưng trên thực tiễn Tòa án gặp rất nhiều khó khăn khi bên vay tiền, bên thế chấp đã bỏ đi khỏi địa phương và không thông báo nơi cư trú mới cho NHTM. Có rất nhiều trường hợp Tòa án đã phải trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án vì không thể xác định được nơi cư trú của Bị đơn và của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Chỉ sau khi TAND Tối cao ban hành Công văn 152/TANDTC-PC ngày 19/7/2017 về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, xử lý nợ xấu và Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 giải đáp một số vướng mắc trong xét xử thì vấn đề này mới giải quyết được triệt để. Theo đó, Tòa án không trả lại đơn khởi kiện mà xác định đây là trường hợp cố tình giấu địa chỉ và thụ lý, giải quyết vụ án theo thủ tục chung và không được yêu cầu người khởi kiện phải cung cấp bổ sung văn bản xác minh nơi cư trú của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Sau khi thụ lý vụ án, nếu Tòa án không tống đạt được văn bản tố tụng và có đủ căn cứ xác định bên vay tiền, bên thế chấp đã đi khỏi nơi cư trú 6 tháng trước thì Tòa án xác định đây là trường hợp bên vay tiền, bên thế chấp cố tình giấu địa chỉ. Khi đó, Tòa án căn cứ quy định tại điểm a, điểm b khoản 2 Điều 6 của Nghị quyết số 04/2017/NQ- HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án để tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục chung mà không ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.
5. Thực tiễn thu thập, xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ:
Để đánh giá toàn diện và làm rõ vụ án, Tòa án tiến hành xem xét các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp. Trong trường hợp cần thiết phải thu thập bổ sung chứng cứ hoặc theo yêu cầu của các đương sự thì Tòa án sẽ tự mình hoặc ủy thác tư pháp cho Tòa án khác tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự để hoàn thiện hồ sơ vụ án. Khi giải quyết các tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ sau đây:
– Yêu cầu các đương sự trong vụ án lập Bản tự khai, trường hợp đương sự không thể tự lập Bản tự khai thì Tòa án sẽ tiến hành lập Biên bản lấy lời khai. Theo yêu cầu của các bên đương sự hoặc nếu nội dung lời khai của họ có sự mâu thuẫn, Thẩm phán có thể tiến hành đối chất giữa các đương sự và những người có liên quan hoặc biết sự việc để làm rõ những tình tiết, sự kiện còn mâu thuẫn, đặc biệt là quá trình thỏa thuận, thương lượng và xác lập HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM.
Xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản là QSDĐ được sử dụng để thế chấp để giải quyết toàn diện, triệt để vụ án và tránh những sai sót do vi phạm thủ tục tố tụng như bỏ sót người tham gia tố tụng hoặc xác định tài sản bảo đảm không đầy đủ, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án sẽ khó thi hành, có thể bị hủy, sửa do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Ngoài ra, việc xem xét, thẩm định tại chỗ còn là căn cứ để Tòa án xem xét, đánh giá điều kiện có hiệu lực của HĐTC QSDĐ để đảm bảo tiền vay tại NHTM.
– Trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết tại HĐTC QSDĐ khi cần thiết vì đây là chứng cứ cơ bản và quan trọng nhất, là cơ sở để xác định ý chí của các bên khi thực hiện hợp đồng. Kết luận trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết chính là chứng cứ để chứng minh việc bên thế chấp có thực sự xác lập HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM hay không vì trên thực tế, đã xảy ra không ít trường hợp bên thế chấp đã giả chữ ký của những người có QSDĐ còn lại để xác lập HĐTC với NHTM.
Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ (Điều 106
Bên cạnh các hoạt động thu thập tài liệu, chúng cử này, Tòa án còn có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ hoặc bảo đảm cho việc thi hành án dân sự, hạn chế việc thay đổi hiện trạng tài sản bảo đảm, gây khó khăn cho giai đoạn thi hành án.
6. Giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn:
Bên cạnh trình tự thông thường mà Tác giả đã phân tích tại Tiểu mục 2.1.6 thì BLTTDS năm 2015 còn quy định về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn đối với các vụ án có đủ các điều kiện sau đây (Khoản 1 Điều 317
Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ.
– Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
– Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Thủ tục tố tụng rút gọn là quy định rất mới và lần đầu tiên được ghi nhận tại Bộ luật Tố tụng năm 2015, thể hiện sự tiến bộ đáng kể của pháp luật tố tụng dân sự nhằm giải quyết nhanh chóng, kịp thời và giảm thiểu những rủi ro, thiệt hại cho đương sự. Trình tự, thủ tục tố tụng và thành phần của Hội đồng xét xử khi giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn được giản lược nhiều so với trình tự thủ tục tố tụng thông thường, giúp Tòa án rút ngắn thời gian giải quyết vụ án nhưng vẫn bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng pháp luật.
Đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng nói chung, Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc Hội đã quy định về việc Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau (Điều 8 Nghị quyết 42/2017/QH14 ngày 21/7/2017 của Quốc Hội khóa 14):
– Trong hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cho bên nhận bảo đảm hoặc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền xử lý tài sản bảo đảm;
– Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật;
Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Cụ thể hóa một số quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc Hội, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao cũng đã ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn chi tiết một số trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn đối khi giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu. Khi đó, tòa án có thể tách yêu cầu về xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu để giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn các tranh chấp HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM đa phần không đủ điều kiện để Tòa án áp dụng thủ tục rút gọn. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ việc các tranh chấp về HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM luôn là các tranh chấp rất phức tạp, có nhiều tình tiết, chứng cứ phải được xem xét, đánh giá một cách toàn diện. Bên cạnh đó, Tòa án cần phải xác định đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Trên thực tế, từ năm 2017 đến nay trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp cũng chưa có tranh chấp nào về HĐTC QSDĐ để bảo đảm tiền vay tại NHTM được giải quyết, xét xử theo thủ tục rút gọn.