Bộ luật dân sự năm 2015 đã có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, trong đó có các tranh chấp về hợp đồng bảo đảm. Dưới đây là quy định hiện hành về thời hiệu khởi kiện hợp đồng bảo đảm.
Mục lục bài viết
1. Quy định mới về thời hiệu khởi kiện hợp đồng bảo đảm:
Căn cứ theo quy định tại Điều 184 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì có thể hiểu, thời hiệu khởi kiện và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015. Đối chiếu với pháp luật về dân sự, căn cứ theo quy định tại Điều 150 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có thể nói, thời hiệu khởi kiện là khái niệm để chỉ thời hạn mà các chủ thể theo quy định của pháp luật sẽ được quyền thực hiện hoạt động khởi kiện để yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án nhân dân giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi nhận thấy quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm bởi các chủ thể khác, nếu như thời hạn theo quy định của pháp luật kết thúc thì các chủ thể sẽ bị mất quyền khởi kiện.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có thể thấy, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng được xác định là 03 năm, thời hiệu này sẽ được tính kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết về quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi các chủ thể khác. Như vậy, thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo đảm được xác định là 03 năm theo quy định của pháp luật, tạo hiệu này sẽ được tính kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết về quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm theo như điều luật nêu trên. Trong thời hạn đó, người có quyền yêu cầu được khởi kiện để yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án nhân dân giải quyết tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo đảm nhầm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước những đối tượng khác khi nhận thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm trái quy định của pháp luật, nếu như thời hạn đó kết thúc thì các chủ thể này sẽ bị mất quyền khởi kiện.
Bên cạnh đó, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện tranh chấp hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo đảm được xác định là ngày mà người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết về quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm. Căn cứ theo quy định tại Điều 278 của Bộ luật dân sự năm 2015 thì có thể thấy, thời hạn thực hiện nghĩa vụ sẽ do các bên thỏa thuận phù hợp với ý chí của các bên. Phù hợp với quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp các bên không xác định được thời hạn thực hiện nghĩa vụ nêu trên thì mỗi bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc mỗi bên cũng có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ thời điểm nào, vào bất cứ lúc nào theo nguyện vọng của mình, tuy nhiên cần phải thực hiện thủ tục thông báo cho bên còn lại biết trước một khoảng thời gian hợp lý. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về thời hạn thực hiện, nếu như thời hạn đó kết thúc mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện, thì ngày hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ sẽ được coi là ngày bắt đầu để làm căn cứ tính thời hiệu khởi kiện. Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thể thỏa thuận được hoặc pháp luật không có quy định về thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc các bên hoàn toàn có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ vào bất cứ lúc nào, vào bất cứ thời điểm nào trên thực tế nhưng cần phải thông báo cho bên còn lại biết trước trong một khoảng thời gian hợp lý, nếu như hết thời hạn đã được thông báo đó mà bên có nghĩa vụ vẫn không thực hiện theo yêu cầu thì ngày hết thời hạn đã được thông báo sẽ được coi là căn cứ để bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.
2. Những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện:
Thời hiệu khởi kiện là một trong những chế định đóng vai trò vô cùng quan trọng, tuy nhiên không phải trong trường hợp nào cũng sẽ áp dụng thời hiệu khởi kiện, pháp luật đã có những quy định ngoại lệ về một số trường hợp không cần áp dụng thời hiệu khởi kiện. Căn cứ theo quy định tại Điều 155 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Như vậy thì có thể thấy, thời hiệu khởi kiện sẽ không được áp dụng trong một số trường hợp cơ bản sau đây:
– Trong trường hợp yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn liền với tài sản;
– Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp pháp luật có liên quan có quy định khác;
– Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;
– Một số trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Theo đó thì có thể nói, sẽ không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong một số trường hợp cơ bản nêu trên.
3. Tòa án xử lý như thế nào khi hết thời hiệu khởi kiện hợp đồng bảo đảm?
Căn cứ theo quy định tại Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về trường hợp trả lại đơn khởi kiện và hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện. Theo đó thì có thể nói, thẩm phán sẽ trả lại đơn khởi kiện trong một số trường hợp cơ bản sau đây:
– Người khởi kiện không đáp ứng đầy đủ điều kiện và không có quyền khởi kiện căn cứ theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, hoặc người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
– Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật. Tức là pháp luật có quy định cụ thể về những điều kiện cần phải đắp ứng trước khi thực hiện thủ tục khởi kiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tuy nhiên người khởi kiện chưa đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện mà đã thực hiện thủ tục khởi kiện trái quy định của pháp luật, vì thế đây sẽ được xác định là trường hợp chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật;
– Sự việc đã được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án, hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác;
– Hết thời hạn theo quy định tại Điều 195 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án, trừ những trường hợp người khởi kiện thuộc diện được miễn tiền tạm ứng án phí hoặc ừ đó là trường hợp không cần phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở lại khách quan và sự kiện bất khả kháng xảy ra;
– Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án;
– Người khởi kiện không tiến hành hoạt động sửa đổi và bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của thẩm phán trái quy định của pháp luật;
– Người khởi kiện rút đơn khởi kiện một cách tự nguyện và không bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào.
Như vậy có thể nói, khi hết thời hiệu khởi kiện thì tòa án sẽ không tiến hành thụ lý vụ án đó mà cần thực hiện thủ tục trả lại đơn khởi kiện, vì chưa đủ điều kiện khởi kiện có bao gồm trường hợp hết thời hiệu khởi kiện.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.