Pháp luật quy định có một số trường hợp người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi người đó không có lỗi. Vậy các trường hợp phải bồi thường thiệt hại khi không có lỗi bao gồm những gì?
Mục lục bài viết
1. Các trường hợp phải bồi thường thiệt hại khi không có lỗi:
Căn cứ các điều về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015 thì các trường hợp phải bồi thường thiệt hại khi không có lỗi bao gồm có các trường hợp sau:
1.1. Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
Điều 601 Bộ luật Dân sự 2015 quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, Điều này quy định:
– Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm có các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, các hệ thống tải điện, những nhà máy công nghiệp đang hoạt động, những vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ theo quy định của pháp luật và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do các điều pháp luật quy định. Chủ sở hữu của những nguồn nguy hiểm cao độ vừa nói trên phải vận hành, sử dụng, bảo quản, trông giữ, vận chuyển nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật.
– Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ vừa nêu trên gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng những nguồn nguy hiểm cao độ vừa nêu trên thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
– Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vừa nêu trên phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
+ Thiệt hại đã xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
+ Thiệt hại đã xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ vừa nêu trên bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nêu trên trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
– Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nêu ở trên có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nêu ở trên phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm có:
– Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, bao gồm có:
+ Xe ô tô;
+ Máy kéo;
+ Rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo;
+ Xe mô tô hai bánh;
+ Xe mô tô ba bánh;
+ Xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự.
– Hệ thống tải điện;
– Nhà máy công nghiệp đang hoạt động;
– Vũ khí;
– Chất nổ;
– Chất cháy;
– Chất độc, chất phóng xạ, thú dữ;
– Những nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chỉ trừ các trường hợp sau thì chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nêu ở trên không phải bồi thường thiệt hại khi không có lỗi:
– Thiệt hại đã xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. Ví dụ, ở những khu vực có biển báo là nguồn điện cao thế nguy hiểm chết người nhưng anh Nguyễn Văn A vẫn vào trộm đồ và bị điện giật chết là trường hợp hoàn toàn do lỗi cố ý của anh Nguyễn Văn A.
– Thiệt hại đã xảy ra ở trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật đã có những quy định khác. Ví dụ, anh Nguyễn Văn A đang lái xe ô tô theo đúng pháp luật về Luật Giao thông đường bộ hiện hành, khi đó anh Vũ Văn B đang lái xe máy theo hướng ngược chiều với anh Nguyễn Văn A và lấn làn đường của anh Nguyễn Văn A. Để tránh gây tai nạn cho anh Vũ Văn B và không còn cách nào khác nên anh Nguyễn Văn A đã lái xe của mình va vào chiếc xe máy thuộc sở hữu của chị Đào Thị C đang đậu trên lề đường gây thiệt hại cho chị Đào Thị C. Trường hợp này chính là tình thế cấp thiết, anh Nguyễn Văn A không phải bồi thường thiệt hại cho chị Đào Thị C mà anh Vũ Văn B phải bồi thường thiệt hại cho chị Đào Thị C vì anh Vũ Văn B đã gây ra tình thế cấp thiết. Ở trường hợp này:
+ Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan mà con người không thể lường trước được và khi đó cũng không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
+ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì có muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp về lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình hoặc của bản thân người khác mà không còn cách nào khác là phải có những hành động gây ra một thiệt hại nhỏ hơn so với những thiệt hại cần ngăn chặn. Trường hợp những thiệt hại xảy ra do đã vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì chính bản thân người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do đã có vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho những người đã bị thiệt hại. Bản thân người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
1.2. Bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường:
Điều 602 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường, Điều này đã quy định rằng chính chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây ra các thiệt hại thì phải thực hiện việc bồi thường theo đúng những quy định của pháp luật, kể cả là trường hợp chính chủ thể đó không có lỗi. Theo đó, trong trường hợp chủ thể đã làm ô nhiễm môi trường mà gây ra những thiệt hại thì chính người đó vẫn phải bồi thường theo quy định của pháp luật ngay cả khi chủ thể đó không có lỗi.
2. Trường hợp bồi thường thiệt hại khi không có lỗi có được giảm mức bồi thường:
Điều 585 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Điều này quy định bao gồm các nguyên tắc sau:
– Thiệt hại thực tế sẽ phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời.
– Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, về hình thức bồi thường (là bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc), về phương thức bồi thường (là một lần hoặc nhiều lần), trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ có thể được có giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với tình hình thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
– Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
– Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu như những thiệt hại đã xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Theo quy định trên thì một trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đó chính là người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoàn toàn có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
Như vậy, trong trường hợp phải bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay cả khi không có lỗi thì người phải bồi thường có thể được giảm mức bồi thường thiệt hại nhưng người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngay cả khi không có lỗi phải chứng minh được thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có hướng dẫn thiệt hại quá lớn so với về khả năng kinh tế của người chịu trách nhiệm bồi thường là trường hợp đã có căn cứ chứng minh rằng nếu như Tòa án đã tuyên buộc bồi thường toàn bộ thiệt hại thì không có điều kiện thi hành án. Ví dụ như, một người vô ý làm cháy nhà của những người khác gây ra thiệt hại 1.000.000.000 đồng. Người gây thiệt hại đang có tổng tài sản là 100.000.000 đồng, thu nhập trung bình hàng tháng của người đó là 2.000.000 đồng. Mức thiệt hại này là quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây thiệt hại.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự 2015;
– Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.