Tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân tuy nhiên việc thực hiện tố cáo cần phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Vậy đối với trường hợp tố cáo nhưng không có bằng chứng như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Tố cáo nhưng không có bằng chứng sẽ bị xử phạt thế nào?
1.1. Tố cáo nhưng không có bằng chứng có được coi là hành vi trái pháp luật không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 30 hiến pháp năm hai không 13 quy định: bất kỳ ai cũng đều có quyền được khiếu nại tố cáo với các cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của các cơ quan chức hoặc cá nhân khác.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật tố cáo năm 2018 tố cáo được hiểu là việc một người trình báo cho cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền biết về các hành vi vi phạm pháp luật đã và đang xảy ra với bất kỳ cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nào khác nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích chung của nhà nước các quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ chức cá nhân theo một trình tự thủ tục được luật quy định.
Như vậy có thể hiểu tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân được hiến pháp và các văn bản luật khác ghi nhận và được bảo đảm việc thực hiện. Thông qua việc tố cáo người dân không chỉ thực hiện quyền mà còn là nghĩa vụ trách nhiệm của người dân khi phát hiện ra những hành vi sai phạm trái pháp luật của các cơ quan tổ chức cá nhân khác nhằm kịp thời ngăn chặn, khắc phục những hậu quả có thể xảy ra do hành vi trái pháp luật của họ gây nên.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý mặc dù tố cáo là quyền của công dân nhưng người thực hiện việc tố cáo cần phải tuân thủ các nghĩa vụ được quy định tại khoản hai điều chín luật tố cáo bao gồm:
– Người tố cáo cần cung cấp đầy đủ thông tin cá nhân do đó việc tố cáo dưới hình thức nặc danh không được pháp luật cho phép
– Người tố cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung tố cáo. Điều này đồng nghĩa với việc nội dung tố cáo có căn cứ xác thực không phải là những nội dung điện đặt vu khống sai sự thật
– Người tố cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra đối với người bị tố cáo Bên cạnh đó theo quy định tại khoản 10 Điều 8 Luật tố cáo cũng nghiêm cấm hành vi của cá nhân có ý tố cáo sai sự thật hoặc có hành vi kích động lôi kéo dụ dỗ mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật và hành vi sử dụng thông tin cá nhân của người khác để tố cáo.
Như vậy, trong trường hợp tố cáo nhưng không có bằng chứng tức là người tố cáo không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật là phải cung cấp đầy đủ các thông tin hoặc tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo của mình trong trường hợp thông tin tố cáo được xác định là nội dung sai sự thật thì hành vi tố cáo này sẽ bị coi là vu khống, bịa đặt. Trường hợp này người bị tố cáo có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự yêu cầu bồi thường thiệt hại tùy theo tính chất và mức độ vi phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 10 và Điều 63 Luật tố cáo năm 2018 để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.2. Hành vi tố cáo nhưng không có bằng chứng bị truy cứu trách nhiệm hình sự:
Căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 156 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017, theo đó:
Áp dụng hình thức xử phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ trong thời hạn đến 02 năm hoặc bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ 03 tháng đến 01 năm đối với những người có hành vi sau đây:
– Người nào vì mục đích xúc phạm đến nhân phẩm danh dự uy tín hoặc nhầm gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà loan truyền hoặc bịa đặt những thông tin sai sự thật về người đó.
– Bịa đặt việc người khác có hành vi trái pháp luật và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận đơn tố cáo.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm nếu người có hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
– Hành vi phạm tội có tổ chức có tức là việc thực hiện hành vi phạm tội đã có sự bàn bạc thống nhất cùng nhau thực hiện tội phạm của 2 người trở lên.
– Phạm tội có hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện hành vi phạm tội người phạm tội thực hiện hành vi vu khống đối với hai người trở lên
– Người phạm tội thực hiện hành vi vu khống đối với những người đã sinh thành ra mình như ông bà cha mẹ hoặc những người dạy dỗ là thầy cô giáo hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục và chữa bệnh cho mình.
– Người có hành vi phạm tội đối với những người đang trong thời gian thi hành công vụ
– Phạm tội thông qua các công cụ phương tiện là mạng máy tính mạng viễn thông hoặc các phương tiện điện tử để thực hiện hành vi vu khống
– Hành vi phạm tội đã gây hậu quả người bị hại làm họ bị rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà gây ra tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31 % đến 60 %.
– Có hành vi phạm tội đã vu khống người khác thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ 03 đến 07 năm tù nếu người phạm tội thuộc một trong các trường hợp dưới đây:
– Động cơ của người thực hiện hành vi phạm tội mang tính chất đê hèn. Ví dụ như cố Ý vu khống người khác để khiến người đó phạm tội phải chấp hành án phạt tù nhằm qua lại với vợ của người đó,…
– Hành vi vu khống gây hậu quả cho người bị hại làm cho họ bị rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân và gây ra tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 61 % trở lên.
– Hành vi vu khống còn gây hậu quả nghiêm trọng làm nạn nhân tự sát. Đối với trường hợp này hậu quả nạn nhân chết không phải là dấu hiệu bắt buộc chỉ cần có hành vi tự sát.
1.3. Hành vi tố cáo nhưng không có bằng chứng bị xử phạt hành chính:
Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP và Nghị định 14/2022/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP như sau:
Áp dụng hình thức xử phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để thực hiện hành vi: Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nhằm mục đích xúc phạm đến uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân.
2. Tội vu khống có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 theo đó những người phạm tội thuộc trường hợp theo quy định tại khoản 1 điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì người có hành vi đặt người khác phạm tội và tố cáo họ ra cơ quan có thẩm quyền hoặc có hành vi loan truyền thông tin sai sự thật vì mục đích xúc phạm đến nhân phẩm danh dự uy tín hoặc nhầm gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có đơn tố cáo yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, nếu người có hành vi vu khống thuộc vào trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 156 BLHS thì việc khởi tố sẽ chỉ được tiến hành khi có đơn tố cáo của bị hại. Còn hành vi tố cáo thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2,3,4 Điều 156 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì không yêu cầu phải có đơn tố cáo người có hành vi phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết:
– Hiến pháp năm 2013;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021);
– Luật Tố cáo năm 2018;
– Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, phòng, chống bạo lực gia đình;
– Nghị định 14/2022/NĐ-CP Sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính viễn thông tần số vô tuyến điện công nghệ thông tin và giao dịch điện tử và NĐ 119/2020/NĐ-CP ngày 07 tháng 10 năm 2020;
– Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.