Vai trò của Viện kiểm sát trước khi thụ lý và chuẩn bị giải quyết vụ việc dân sự: Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự và kiểm sát việc lập hồ sơ vụ việc dân sự.
Mục lục bài viết
1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự:
Hoạt động đầu tiên của VKS trong giai đoạn này là hoạt động kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự của TAND. Kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự là kiểm sát đối với hoạt động tố tụng dân sự đầu tiên của
Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của VKS có ý nghĩa rất quan trọng. Nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ khi thụ lý vụ việc dân sự sẽ có nhiều tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết vụ việc của Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo quan hệ tích cực, chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; tạo sự chủ động và là tiền đề cho kiểm sát viên nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của vụ việc dân sự; chủ động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động tố tụng dân sự. Vì vậy, việc phát hiện kịp thời việc thụ lý sai quy định còn tránh được tình trạng tiến hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết, tiết kiệm được thời gian, tiền của, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.
Hoạt động quan trọng trong kiểm sát thụ lý vụ việc dân sự mà VKS cần thực hiện là kiểm sát việc xử lý đơn khởi kiện vụ án dân sự. Theo quy định của BLTTDS 2015, sau khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện cùng tài liệu, chứng cứ thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được Chánh án phân công xem xét đơn khởi kiện thì Thẩm phán được phân công phải có một trong các quyết định: tiến hành thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật; yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nếu đơn khởi kiện không đảm bảo về mặt hình thức, nội dung, sau đó tiến hành thủ tục thụ lý vụ án dân sự và gửi
Tuy nhiên, thực tế cho thấy có nhiều trường hợp mặc dù không đủ điều kiện khởi kiện hay không đúng thẩm quyền thụ lý nhưng Tòa án vẫn tiến hành thủ tục thụ lý vụ án và ra thông báo về việc thụ lý gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của một số đương sự, gây tốn kém, lãng phí ngân sách Nhà nước, … Trường hợp khác, người khởi kiện có đủ điều kiện khởi kiện, đủ điều kiện thụ lý, gửi đơn khởi kiện đúng Tòa án có thẩm quyền nhưng Tòa án không tiến hành thụ lý giải quyết vụ án mà tiến hành trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ cho người khởi kiện gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, của người bị thiệt hại hoặc người xâm phạm.
Để đảm bảo cho quá trình Tòa án thụ lý vụ án và gửi thông báo về việc thụ lý vụ án dân sự cũng như việc trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự cho người khởi kiện đúng quy định của pháp luật, góp phần bảo vệ hiệu quả quyền khởi kiện của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân, pháp luật đã quy định cho Viện kiểm sát nhân dân có những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhất định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án và thống báo về việc thụ lý vụ án dân sự, cũng như việc Tòa án tiến hành từ chối thụ lý vụ án dân sự, trả lại đơn khởi kiện vụ án dân sự cho người khởi kiện.
Căn cứ pháp lý trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện được quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS. Theo đó:
Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu.
Quy định này đã khắc phục được hạn chế của Điều 168 BLTTDS 2011. Với quy định của BLTTDS 2011 sẽ dẫn đến sự thiếu thống nhất trong cách hiểu: kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện là kiểm sát nội dung thông báo hay kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Nếu hiểu theo hướng kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án sẽ dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện. Bởi vì, thực tiễn khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì cũng trả lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Muốn biết được hoạt động trả lại đơn có đúng quy định hay không, KSV phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
Nhưng khi nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện, KSV có muốn cũng không thể nghiên cứu được vì Tòa án không còn lưu giữ những tài liệu đó. Vì vậy, không thể đánh giá được hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án có chính xác không. Bên cạnh đó, pháp luật chỉ có quy định một chiều về việc Tòa án gửi Thông báo trả lại đơn khởi kiện cho VKS, vì vậy VKS rất khó khăn trong việc theo dõi các trường hợp trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Điều đó dẫn đến thực trạng có trường hợp Tòa án không gửi thông báo thì VKS cũng không nắm được và cũng không có cơ chế kiểm tra hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Thông thường, VKS chỉ nắm được khi người khởi kiện khiếu nại, Chánh án giải quyết khiếu nại và gửi kết quả tới VKS. Lúc đó, Tòa án mới gửi thông báo đến cho VKS.
BLTTDS 2015 đã khắc phục được phần nào hạn chế của BLTTDS 2005, phục vụ hiệu quả cho công tác kiểm tra, đánh giá sau này. Việc sao chụp tài liệu tại Tòa án đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện sẽ giúp VKS dễ dàng hơn trong việc kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, kịp thời phát hiện vi phạm và thực hiện quyền yêu cầu hoặc kiến nghị khắc phục vi phạm (nếu có) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện, người yêu cầu, mặt khác bảo đảm việc thụ lý giải quyết của Tòa án đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, BLTTDS 2015 cũng quy định kéo dài thời hạn thực hiện quyền kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Tại khoản 1 Điều 194 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày VKS nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện thì VKS có quyền kiến nghị với Tòa án về việc trả lại đơn khởi kiện”. (theo quy định của BLTTDS 2011 là 3 ngày).
Đối với trường hợp sau khi xem xét đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công xét thấy có đủ điều kiện thụ lý vụ án dân sự thì phải tiến hành thụ lý vụ án theo quy định của pháp luật. Khi kiểm sát việc thụ lý, việc đầu tiên kiểm sát viên cần tiến hành vào sổ thụ lý và kiểm tra văn bản thông báo thụ lý vụ án. Đây là khâu quan trọng trong quá trình kiểm sát thụ lý. Kiểm sát viên tiến hành nghiên cứu văn bản thông báo thụ lý vụ án dân sự của Tòa án chuyển đến, đối chiếu với các quy định của pháp luật. Khi cần thiết có thể yêu cầu Tòa án cung cấp tài liệu, so sánh liên quan đến việc thụ lý để kiểm tra, đối chiếu. Từ đó, khi phát hiện vi phạm để kiến nghị với Tòa án hoặc kháng nghị sau khi kết thúc việc giải quyết vụ án.
Như vậy, hoạt động thụ lý của VKSND có ý nghĩa rất quan trọng, nếu làm tốt công tác kiểm sát ngay từ khi thụ lý có nhiều tác dụng như: góp phần đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ việc của Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo quan hệ tích cực chặt chẽ giữa VKS và Tòa án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; đồng thời chủ động phòng ngừa, góp phần hạn chế đến mức thấp nhất các sai lầm có thể xảy ra ngay từ thời điểm bắt đầu các hoạt động tố tụng. Việc phát hiện kịp thời việc thụ lý vụ việc sai còn tránh được tình trạng phải tiến hành các thủ tục tố tụng kéo dài, không cần thiết. Có thể thấy rằng, BLTTDS ra đời quy định về vấn đề thụ lý của Tòa án phải được chuyển cho VKSND để kiểm sát việc tuân theo quy định của pháp luật được đánh giá là bước phát triển của pháp luật tố tụng dân sự trong việc xác định vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, quy định của BLTTDS 2015 về kiểm sát thụ lý vẫn chưa thực sự đảm bảo cho VKS thực hiện hiệu quả chức năng kiểm sát, bởi một mặt quy định quyền hạn cho VKS như vậy nhưng pháp luật TTDS lại không mang tính ràng buộc đối với Tòa án, ví dụ trong trường hợp Tòa án gửi thông báo thụ lý cho VKS không đúng thời hạn thi hậu quả sẽ như thế nào. Pháp luật quy định cho VKS có quyền yêu cầu, quyền kiến nghị nếu Tòa án vi phạm pháp luật nhưng lại không quy định Tòa án có trách nhiệm bắt buộc trả lời yêu cầu kiến nghị của VKS. Vì thế, quy định về việc thông báo thụ lý vụ việc dân sự thiếu những ràng buộc cụ thể khi Tòa án không chuyển hoặc chuyển chậm cho VKS thông báo thụ lý. Có thể nói quy định kiểm sát thụ lý trong luật vẫn còn mang tính hình thức.
2. Vai trò của Viện kiểm sát trong quá trình kiểm sát việc lập hồ sơ vụ việc dân sự:
Sau khi thụ lý vụ án dân sự, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng cho việc chuẩn bị xét xử và có quyền ra các quyết định nhằm giải quyết vụ án
dân sự cũng như các quyết định tố tụng có giá trị bảo đảm cho công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bao gồm: quyết định chuyển vụ án dân sự; quyết định nhập hoặc tách vụ án dân sự; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự; quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự và một số quyết định khác.
Ở đoạn đoạn này, ngoài việc tiếp nhận các tài liệu chứng cứ do các đương sự, cơ quan, tổ chức các nhân có liên quan tự nguyện giao nộp khi nếu thấy cần thiết thì Tòa án cũng có thể tự tiến hành một hoặc một vài biện pháp để thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc tiến hành do yêu cầu của đương sự, cơ quan, tổ chức có liên quan yêu cầu hoặc tiến hành do yêu cầu của VKS. Các biện pháp để Tòa án có thể tiến hành thu thập bao gồm: lấy lời khai của đương sự (Điều 98 BLTTDS); lấy lời khai của người làm chứng (Điều 99); đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng (Điều 100); trưng cầu giám định (Điều 102); định giá tài sản (Điều 104); xem xét, thẩm định tại chỗ (Điều 101); Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ(Điều 105); yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc đường, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ án (Điều 106); xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú.
Ngoài ra, trong giai đoạn này Tòa án cũng sẽ tiến hành hòa giải vụ án dân sự. Pháp luật tố tụng dân sự không quy định việc Tòa án phải gửi thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; không gửi
Có ý kiến cho rằng việc quy định VKS không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải là làm ngắt quãng việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết vụ án dân sự của VKS. Tuy nhiên, tác giả cho rằng giai đoạn tiến hành hòa giải chính là tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự. Do đó, việc VKS không tham gia các phiên hòa giải không hề ảnh hưởng đến tính liên tục của quá trình kiểm sát của VKS bởi VKS vẫn có thể thực hiện chức năng kiểm sát thủ tục này sau khi Tòa án chuyển hồ sơ sang VKS đối với những vụ việc VKS sẽ tham gia phiên tòa và các quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự đối với trường hợp hòa giải thành.
Khi tiến hành kiểm sát các quyết định tố tụng của Tòa án gửi đến VKS chỉ tiến hành lập hồ sơ kiểm sát đối với ba loại quyết định: quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án và quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Các quyết định tố tụng còn lại, VKS không tiến hành lập hồ sơ kiểm sát. Quá trình kiểm sát các quyết định giải quyết vụ việc dân sự nếu phát hiện những vi phạm ít nghiêm trọng chưa đến mức kháng nghị thì VKS sẽ ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục vi phạm. Nếu phát hiện vi phạm về nội dung và mức độ vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm hoặc ảnh hưởng đến quyền con người, quyền công dân… thì VKS sẽ tiến hành xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm theo quy định của pháp luật.