Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập và phát triển với thế giới, vì vậy các tranh chấp có yêu tố nước ngoài xảy ra ngày càng nhiều, trong đó có lĩnh vực lao động. Vậy thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động có yêu tố nước ngoài được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài:
Căn cứ theo quy định tại Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, có quy đinh thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
Thứ nhất, tòa án nhân dân cấp huyện sẽ có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những vụ tranh chấp theo quy định của pháp luật như sau:
– Tranh chấp về dân sự, tranh chấp về hôn nhân gia đình căn cứ theo quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Tranh chấp về kinh doanh thương mại căn cứ theo quy định tại Điều 30 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Những tranh chấp về lao động căn cứ theo quy định tại Điều 32 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ hai, tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
– Yêu cầu về dân sự căn cứ theo quy định tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 và khoản 10 Điều 27 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Yêu cầu về hôn nhân và gia đình căn cứ theo quy định tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4, khoản 5, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 10 và khoản 11 Điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Yêu cầu về kinh doanh thương mại căn cứ theo quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Yêu cầu về lao động căn cứ theo quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Thứ ba, những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Việt Nam trên lãnh thổ của nước ngoài, cho cơ quan có thẩm quyền là tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời bên cạnh đó pháp luật hiện nay còn quy định, tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân mang quốc tịch Việt Nam tiến hành hoạt động hủy việc kết hôn trái quy định của pháp luật, giải quyết ly hôn hoặc yêu cầu giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con, giải quyết nhu cầu về nhận cha mẹ con hoặc nuôi con nuôi và các quy định liên quan đến người giám hộ giữa công dân mang quốc tịch Việt Nam cư trú ở các khu vực biên giới với những chủ thể được xác định là công dân của nước láng riêng cùng nơi cư trú ở các khu vực biên giới với Việt Nam đó, trong những trường hợp này mặc dù có yếu tố nước ngoài nhưng cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp huyện.
Bên cạnh đó, theo Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, có quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cụ thể như sau:
– Tranh chấp về dân sự, tranh chấp về hôn nhân và gia đình, tranh chấp về kinh doanh thương mại, tranh chấp về lao động quy định tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Yêu cầu về dân sự, yêu cầu về hôn nhân và gia đình, yêu cầu về kinh doanh thương mại, yêu cầu về lao động quy định tại các Điều 27, Điều 29, Điều 31 và Điều 33 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Như vậy theo phân tích nêu trên thì có thể nói, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động có yêu tố nước ngoài sẽ thuộc về tòa án nhân dân cấp tỉnh theo quy định của pháp luật hiện nay.
2. Dấu hiệu nhận biết các tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài:
Tranh chấp lao động thường phát sinh từ những mâu thuẫn phải giải quyết trong phạm vi quan hệ lao động. Tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài là một trong những vấn đề của tranh chấp lao động nói chung được pháp luật Việt Nam quy định cụ thể. Nhìn chung thì có thể nói, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là khái niệm để chỉ những quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên tham gia vào quan hệ đó là cơ quan tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, những đối tượng được xác định là người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân hoặc tổ chức Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập/thay đổi/chấm dứt quan hệ đó lại áp dụng pháp luật nước ngoài hoặc phát sinh tại nước ngoài hoặc các tài sản liên quan đến quan hệ đang tồn tại ở nước ngoài. Về cơ bản thì có thể nói, quan hệ lao động có yêu tố nước ngoài là những quan hệ lao động có các dấu hiệu cơ bản sau đây:
– Chủ thể tham gia quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài. Có nghĩa là bên sử dụng lao động hoặc người lao động có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật. Người sử dụng lao động được xác định là người nước ngoài hoặc người lao động cũng được xác định là người nước ngoài. Đơn cử như người lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, người lao động Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài, người lao động Việt Nam làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài đặt trụ sở trên lãnh thổ của Việt Nam, công ty Việt Nam thuê lao động có quốc tịch nước ngoài …;
– Nơi thực hiện công việc lao động theo thỏa thuận được ghi nhận trong hợp đồng ký kết giữa người sử dụng lao động và người lao động được xác định ở nước ngoài;
–
– Hợp đồng lao động được ký kết theo pháp luật nước ngoài.
Như vậy thì có thể nói, khi tranh chấp lao động xảy ra đồng thời có các dấu hiệu nêu trên thì tranh chấp đó sẽ được xác định là tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài. Và tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài thì cần phải giải quyết theo thẩm quyền được phân tích nêu trên.
3. Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài:
Thành phần hồ sơ và trình tự thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài sẽ trải qua những giai đoạn cơ bản sau:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ để giải quyết tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài nộp đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thành phần hồ sơ trong trường hợp này sẽ bao gồm các loại giấy tờ và tài liệu sau đây:
– Đơn khởi kiện tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài theo mẫu do pháp luật quy định;
– Bản sao các loại giấy tờ tùy thân của bên khởi kiện tranh chấp lao động có yếu tố nước ngoài;
– Hợp đồng lao động được ký kết giữa người lao động và người sử dụng lao động;
–
– Quyết định hoặc biên bản hòa giải của hòa giải viên lao động tại các cơ quan lao động cấp quận huyện hoặc của hội đồng trọng tài lao động cấp thành phố đối với những vụ tranh chấp lao động tập thể;
– Các tài liệu chứng cứ chứng minh rằng quyền lợi của mình trong quan hệ lao động có yếu tố nước ngoài bị xâm phạm;
– Các bản kê khai kèm theo tài liệu khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu.
Bước 2: Sau khi chuẩn bị bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ nếu trên thì người khởi kiện sẽ nộp hồ sơ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo như phân tích trên. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiếp nhận hồ sơ và giải quyết theo quy định của pháp luật. Căn cứ theo quy định tại Điều 188 của
Bước 3: Trong khoảng thời hạn 05 ngày làm việc được tính kể từ ngày nhận đơn yêu cầu hòa giải thì hòa giải viên lao động sẽ phải giải quyết tranh chấp và kết thúc hòa giải theo quy định của pháp luật. trong trường hợp không bắt buộc phải thực hiện thủ tục hòa giải hoặc hết thời hạn hòa giải những hòa giải viên lao động vẫn không tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật hoặc trường hợp hòa giải không thành công, thì các bên tranh chấp sẽ có quyền nộp đơn đến tòa án nhân dân cấp tỉnh để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Lao động năm 2019;
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.