Hiện nay, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, nhiều nhà nghỉ và khách sạn đã cho khách nợ tiền phòng. Tuy nhiên, mặc dù có khả năng thanh toán nhưng những người khách này đã không thanh toán tiền phòng theo thỏa thuận. Vậy, trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ và khách sạn sẽ bị xử lý như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ, khách sạn bị xử lý thế nào?
Trên thực tế hiện nay, không có bất kỳ một nhà nghỉ hay một khách sạn nào mong muốn khách nợ tiền phòng mặc dù là “khách quen”, kể cả là người thân của chủ cơ sở hoặc người thân của nhân viên đến lưu trú tại khách sạn và nhà gì đó. Tuy nhiên vấn đề này vẫn đang được diễn ra trên thực tế vô cùng phổ biến.
Có thể kể đến một trường hợp thực tế như sau: Tại khách sạc Đông Đô, hai tháng về trước, chị Liên (lễ tân của khách sạn) có khách đến thuê phòng theo tháng, giá được xác định là 5.600.000 đồng/tháng, và yêu cầu khách thanh toán tháng đầu tiên nhưng khách đã thỏa thuận thanh toán thành nhiều đợt, cứ 15 hàng tháng sẽ trả một lần. tuy nhiên đến hẹn trả tiền thì khách đã báo với chị lễ tân rằng vợ mình đang bị ốm, vì thế gia đình rất khó khăn và chưa có tiền trả, khách xin gia hạn thêm một tuần nữa sẽ trả bằng cách chuyển khoản và đồng thời bảo trả phòng vì phải vào viện để chăm sóc vợ. Nhưng một tuần sau đó vẫn không thấy có động tĩnh gì. Chị Liên liên tục điện thoại và nhắn tin nhưng khách không bắt máy và không trả lời. Hậu quả là chị Liên bị chủ khách sạn khiển trách và bắt trả tiền nợ thay cho khách, số tiền đó sẽ được trừ dần trực tiếp vào số tiền lương hàng tháng và chị Liên được hưởng. Như vậy có thể nói, việc cho khách nợ tiền nhà nghỉ hoặc khách sạn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, bởi không có gì đảm bảo rằng người khách đó sẽ không có ý định “bùng tiền”.
Vậy câu hỏi đặt ra: Hành vi trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ hoặc khách sạn sẽ bị xử lý như thế nào? Căn cứ theo quy định tại Điều 15 của Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình, có quy định về hành vi vi phạm quy định của pháp luật gây thiệt hại đến tài sản của các cá nhân và tổ chức khác. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật sau đây:
– Có hành vi trộm cắp hoặc xâm nhập trái phép vào các khu vực nhà ở, xâm phạm trái phép vào kho bãi hoặc địa điểm thuộc quyền quản lý của người khác nhằm mục đích ăn trộm hoặc chiếm đoạt tài sản trái quy định pháp luật;
– Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trái quy định của pháp luật nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác, hoặc đến thời điểm phải trả lại tài sản đó từ hợp đồng vay mượn hoặc thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng, mặc dù có đầy đủ điều kiện để hoàn trả và có khả năng để hoàn trả nhưng cố tình không trả;
– Không trả lại tài sản cho người khác từ quá trình vay mượn hoặc thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản đó của người khác thông qua hình thức hợp đồng nhưng sử dụng tài sản đó vào mục đích trái quy định của pháp luật dẫn đến hiện tượng không có khả năng để hoàn trả lại tài sản;
– Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức và doanh nghiệp.
Thứ hai, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với những chủ thể thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật sau đây:
– Có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của các cá nhân và tổ chức;
– Dùng thủ đoạn gian dối hoặc tạo ra hoàn cảnh đặc biệt để buộc người khác phải đưa tài sản của họ cho mình;
– Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, gian lận hoặc lừa đảo trong quá trình hướng dẫn giới thiệu mua bán dịch vụ nhà đất và các loại tài sản khác;
– Mua bán hoặc cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác khi biết rõ đó là tài sản do hành vi vi phạm pháp luật mà có;
– Sử dụng hoặc mua bán, thế chấp hoặc cầm cố trái phép hoặc chiếm giữ trái phép tài sản của người khác;
– Cưỡng đoạt tài sản của người khác nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, hình thức xử phạt bổ sung có thể được áp dụng trong trường hợp này như sau:
– Tịch thu tang vật và tịch thu phương tiện vi phạm hành chính;
– Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm quy định của pháp luật nêu trên ra khỏi lãnh thổ của Việt Nam.
Thứ tư, những biện pháp khắc phục hậu quả có thể được áp dụng trong trường hợp này như sau:
– Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp thu được do hành vi phạm tội mà có;
– Trả lại tài sản do chiếm giữ trái phép tài sản của người khác thông qua hành vi trái quy định pháp luật;
– Khôi phục lại tình trạng ban đầu đối với những hành vi vi phạm quy định của pháp luật.
Như vậy có thể nói theo phân tích nêu trên, người có hành vi trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ hoặc khách sạn mặc dù hoàn toàn có khả năng để trả thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng. Ngoài ra người có hành vi này còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là buộc phải thanh toán đầy đủ số tiền đó cho chủ nhà nghỉ hoặc khách sạn.
2. Trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ, khách sạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Hành vi trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ hoặc khách sạn hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản căn cứ theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015 khi thỏa mãn đầy đủ các cấu thành tội phạm của tội danh này. Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bao gồm hai loại trường hợp sau:
– Chiếm đoạt tài sản của người khác đã được giao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản v.v. bằng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn hoặc cố tình không trả lại tài sản đó khi đến hạn mặc dù có điều kiện, khả năng để trả lại;
– Sử dụng tài sản của người khác đã được giao cho mình trên cơ sở hợp đồng vay, mượn, thuê … vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Ngoài dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hình sự, chủ thể của tội phạm này được quy định phải là người đã được chủ tài sản tín nhiệm giao cho tài sản nhất định. Cơ sở giao tài sản là hợp đồng. Việc giao và nhận tài sản là hoàn toàn ngay thẳng. Chủ tài sản do tín nhiệm đã giao tài sản để người được giao:
– Sử dụng (hợp đồng vay, mượn, thuê);
– Bảo quản (hợp đồng trông giữ, bảo quản);
– Vận chuyển (hợp đồng vận chuyển);
– Gia công (hợp đồng gia công chế biến);
– Sửa chữa (
Mức phạt cao nhất đối với tội phạm này là lên đến 20 năm tù.
3. Giải pháp được áp dụng khi nhà nghỉ, khách sạn cho khách nợ tiền:
Nhiều khách sạn hiện nay đã chia sẻ nỗi buồn trong quá trình kinh doanh của mình lên cộng đồng mạng để mong muốn tìm ra được những phương hướng giải pháp hữu hiệu với mục đích ngăn chặn hành vi sai trái của khách hàng. Vì trên thực tế xuất hiện nhiều nguyên nhân khác nhau, mặc dù không mong muốn cho khách hàng nợ tiền nhưng các chủ khách sạn hoặc chủ nhà nghỉ bắt buộc phải cho khách nợ trong một số trường hợp nhất định. Và khi cho khách nợ tiền thì để tránh trường hợp khách có hành vi trốn nợ không trả tiền nhà nghỉ hoặc khách sạn, nhiều người đã đưa ra những gợi ý và đề xuất như sau có thể tham khảo để bảo vệ quyền lợi của chủ nhà nghỉ và khách sạn:
– Cứng rắn trong vấn đề thu tiền phòng ngay từ đầu, không tỏ ra thái độ rõ ràng và yếu lòng đối với những người khách khi có nhu cầu mong muốn được nợ tiền phòng, nếu như khách có thái độ hạch sách và đe dọa thì sẽ xin phép không phục vụ những người khách đó;
– Nhẹ nhàng và lịch sự, có thể đan xen một chút khẩn thiết mong khách hàng có thể thanh toán đầy đủ tiền phòng, có thể đưa ra những lý do phù hợp, trước hết đó là quy định của khách sạn và sau là bản thân sẽ phải hoàn tiền túi ra để trả nợ thay cho khách cũ, những vị khách chân chính và giàu lòng nhân ái thì đương nhiên sẽ đồng ý với quan điểm này vì trước sau gì thì họ cũng phải trả khoản tiền đó để cho nhân viên yên tâm;
– Nếu là khách quen đã ở đó lâu dài thì có thể yêu cầu khách cọc trước một lần tương ứng với một khoảng thời gian lưu trú nhất định, và sau đó cho đến ngày hẹn thì sẽ thu đủ số tiền cũ và cọc tiếp một ít cho giai đoạn tiếp theo, chia nhỏ khoản tiền ra như vậy để dễ dàng hơn đối với thu ngân trong vấn đề thu tiền của khách hàng, lễ tân nên khéo léo nhắc khách về việc sắp xếp thời hạn thanh toán và cọc để khách có thể chuẩn bị trước vì có nhiều trường hợp khách quên chứ không cố tình không trả tiền;
– Yêu cầu khách để lại một vật có giá trị về tinh thần hoặc vật chất để làm tin nhưng sẽ không giữ giấy tờ tùy thân của khách bởi đó là hành vi vi phạm quy định của pháp luật, khách sạn sẽ hoàn trả lại món đồ đó khi khách trả phòng và thanh toán đầy đủ số tiền;
– Lập giấy xác nhận đó và yêu cầu khách ký để đảm bảo quyền lợi, giấy này sẽ được dùng khi khách có hành vi không trả tiền và khách sạn cần thu thập bằng chứng chứng cứ chứng minh về hành vi vi phạm của khách hàng cùng với thông tin của khách hàng đã sao chép khi đặt phòng và camera ghi lại hình ảnh khách đến lưu trú tại khách sạn, cùng với người làm chứng để làm đơn khởi kiện đến cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
– Nghị định số 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.