Mua bán hàng hóa là một hoạt động thương mại rất phổ biến trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đây cũng là hoạt động tìm ẩn nhiều rủi ro và dễ phát sinh tranh chấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Vậy, thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa được pháp luật quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Những tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa thường gặp:
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo đó thì có thể hiểu, hợp đồng mua bán hàng hóa chính là một loại hình của hoạt động thương mại, và theo đó thì bên bán sẽ có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa hợp pháp của mình cho bên mua sau đó nhận thanh toán từ bên mua, còn bên mua sẽ có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền hàng cho bên bán, sau đó nhận hàng và nhận quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận của các bên. Hợp đồng mua bán hàng hóa chính là sự thỏa thuận của các bên, bên bán sẽ chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho bên mua và bên mua sẽ trả tiền cho bên bán theo như phân tích nêu trên. Theo đó thì hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ có một số đặc điểm cơ bản như sau:
– Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân theo quy định của pháp luật, vấn đề này xuất phát từ yêu cầu điều kiện chủ thể của hoạt động thương mại, vì thế cho nên các bên chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc trong một số trường hợp thì bên bán là thương nhân. Đây được xem là đặc điểm khác biệt của chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa với hợp đồng mua bán tài sản nói chung trong dân sự;
– Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa chính là hàng hoá. Căn cứ theo quy định tại Điều 3
– Mục đích chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa chính là mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Đặc điểm này xuất phát và gắn liền với đặc điểm về chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa chính là những thương nhân;
– Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng những hành vi cụ thể phù hợp với quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015.
Bên cạnh đó, tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa chính là những mâu thuẫn và bất đồng về quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quá trình tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa và chủ yếu là liên quan đến việc thực hiện hoặc không thực hiện các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa có thể phát sinh từ nội dung của hợp đồng mà các bên đã ký kết trước đó, giải thích hợp đồng, tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy có thể kể đến những tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa thường gặp như sau:
– Bên bán hàng giao hàng chậm;
– Bên bán giao hàng không đúng chủng loại hoặc không đúng số lượng theo như cam kết đã được ghi nhận trong hợp đồng;
– Bên mua hàng vi phạm nghĩa vụ thanh toán cho bên bán;
– Bên bán vi phạm các điều kiện về thời điểm chuyển giao hàng hóa cho bên mua;
– Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
2. Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa:
Pháp luật hiện nay đã có những quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thì sẽ không thể tránh khỏi những tranh chấp và mâu thuẫn bất đồng phát sinh giữa các bên. Một số tranh chấp cơ bản xoay quanh vấn đề thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa đã được phân tích cụ thể trong phần viết nêu trên. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa cũng là một trong những vấn đề được nhiều người quan tâm. Trong trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa không có yếu tố nước ngoài thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về tòa án nhân dân Việt Nam hoặc trọng tài thương mại. Trong trường hợp tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài thì căn cứ theo quy định tại Điều 663 của Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 464 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ được thực hiện như sau:
– Cần phải xem xét xem nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có hiệp định tương trợ tư pháp với các bên tranh chấp hay không và quy định của hiệp định đó về vấn đề này như thế nào, tùy thuộc vào hiệp định tương trợ tư pháp mà thẩm quyền giải quyết tranh chấp sẽ được xác định là tòa án Việt Nam hoặc tòa án nước ngoài;
– Tranh chấp hợp đồng có yếu tố nước ngoài sẽ thuộc thẩm quyền chung của tòa án Việt Nam căn cứ theo quy định tại Điều 469 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
– Thẩm quyền riêng biệt của tòa án Việt Nam sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 470 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đối với các bên lựa chọn giải quyết tại tòa án Việt Nam và giải quyết theo pháp luật Việt Nam hoặc những điều ước quốc tế mà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các bên đồng ý lựa chọn tòa án Việt Nam để giải quyết tranh chấp.
Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ trải qua một số giai đoạn cơ bản sau:
Bước 1: Các chủ thể sẽ nộp hồ sơ khởi kiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cần chuẩn bị một bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ để thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Thành phần hồ sơ trong trường hợp này sẽ bao gồm những loại giấy tờ cơ bản sau:
– Đơn khởi kiện theo mẫu do pháp luật quy định;
– Các tài liệu chứng minh chủ thể trong quan hệ mua bán có tranh chấp;
– Tài liệu chứng minh tư cách hợp pháp của người ký đơn khởi kiện;
– Hợp đồng mua bán vào các văn bản tài liệu giao dịch có giá trị như hợp đồng hoặc
– Tài liệu về bảo đảm thực hiện hợp đồng với bảo lãnh hoặc thế chấp hoặc cầm cố …;
– Các tài liệu và chứng cứ chứng minh cho việc thực hiện nghĩa vụ của các bên như việc giao nhận hàng, biên bản nghiệm thu, chứng từ thanh toán, biên bản thanh lý hợp đồng và các biên bản làm việc về công nợ còn tồn động trên thực tế;
– Các chứng cứ vào tài liệu chứng minh lỗi hoặc sự vi phạm nghĩa vụ của một bên hoặc các bên;
– Biên lai nộp lệ phí hoặc nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định của pháp luật. Và nếu như các tài liệu nêu trên là văn bản được viết bằng tiếng nước ngoài thì đều phải được dịch thuật sang tiếng Việt do cơ quan hoặc tổ chức có chức năng dịch thuật thực hiện, sau đó phải kèm theo bản gốc để tiến hành hoạt động đối chiếu.
– Các văn bản và tài liệu khác nếu lục bản sao thì chép bài có xác nhận sao y bản chính.
Bước 2: Sau khi chuẩn bị bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ thì sẽ nộp hồ sơ đến tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền. Sau đó tòa án sẽ tiếp nhận đơn và hồ sơ khởi kiện, ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho người nộp đơn.
Bước 3: Đương sự nộp biên lai tạm ứng án phí cho tòa án nhân dân cấp có thẩm quyền, thẩm phán phụ trách sẽ ra quyết định thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý tới cho các đương sự và viện kiểm sát cùng cấp.
Bước 4: Các bên đương sự có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với nội dung khởi kiện trong khoảng thời gian 15 ngày làm việc được tính kể từ ngày nhận được thông báo. Sau đó ra quyết định đưa vụ án ra xét xử trên thực tế.
3. Những phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa:
Căn cứ theo quy định tại
Thứ nhất, thương lượng giữa các bên. Thương lượng chính là phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa thông qua việc các bên tranh chấp cùng ngồi lại với nhau để bàn bạc và tự tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự giúp đỡ hoặc phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Thương lượng được xem là cơ chế giải quyết nội bộ thông qua việc gặp gỡ trực tiếp để thỏa thuận của các bên. Quá trình thương lượng mang đặc điểm đó là không chịu sự ràng buộc của bất kỳ nguyên tắc pháp lý hay những quy định mang tính khuôn mẫu của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Kết quả của thương lượng được thực hiện trên thực tế sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên mà không có bất kỳ cơ chế nào đảm bảo việc thực hiện đối với kết quả thương lượng đó.
Thứ hai, giải quyết thông qua thủ tục hòa giải. Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian để thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại bỏ mâu thuẫn đã phát sinh. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa bằng biện pháp hòa giải có sự hiện diện của bên thứ ba làm trung gian để giúp cho các bên loại trừ tranh chấp. Quá trình hòa giải của các em sẽ không chịu sự chi phối của các quy định mang tính khuôn mẫu và bắt buộc của pháp luật. Và kết quả của quá trình hòa giải được thực hiện hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp và cũng không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào để đảm bảo cho quá trình thực hành những cam kết của các bên đó.
Thứ ba, tòa án. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa tại tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện theo thủ tục luật định một cách nghiêm ngặt và chặt chẽ. Các phán quyết có hiệu lực của tòa án sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Và phán quyết của tòa án hoàn toàn có thể bị kháng cáo hoặc kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Thứ tư, trọng tài thương mại. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa bằng trọng tài thương mại chính là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt những mâu thuẫn bằng việc đưa ra phán quyết trọng tài và buộc các bên phải tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên trọng tài thương mại chỉ giải quyết tranh chấp thương mại khi có yêu cầu của các bên và tranh chấp đó phải thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Chủ thể giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại chính là các trọng tài viên thực hiện thông qua hội đồng trọng tài gồm một trọng tài viên độc lập hoặc hội đồng trọng tài bao gồm nhiều trọng tài viên để giải quyết. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài sẽ đảm bảo sự kết hợp của hai yếu tố đó là thỏa thuận và phán quyết. Trọng tài chính là một trong những cơ chế giải quyết tranh chấp đảm bảo tính bảo mật và đây cũng được xem là yêu điểm của trọng tài so với tòa án bởi vì tòa án là phương thức xét xử công khai. Và phán quyết trọng tài là phán quyết chung thẩm.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Thương mại năm 2005;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.