Dưới đây là một số bản án về việc hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bài viết này nhằm phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu, công tác của các độc giả.
Mục lục bài viết
- 1 1. Có được hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã công chứng không?
- 2 2. Các bản án hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
- 2.1 2.1. Bản án số 07/2022/DS-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất:
- 2.2 2.2. Bản án số 91/2023/DS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu:
- 2.3 2.3. Bản án số 62/2023/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất:
1. Có được hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã công chứng không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 5 của Luật công chứng năm 2018 có quy định về giá trị pháp lý của văn bản công chứng, cụ thể như sau:
– Văn bản công chứng theo quy định của pháp luật hiện nay sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm được công chứng viên ký và đóng dấu vào tổ chức hành nghề công chứng;
– Hợp đồng và giao dịch được công chứng tại các tổ chức hành nghề công chứng sẽ có hiệu lực thi hành đối với các bên có liên quan, trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ của mình thì bên kia sẽ có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết theo thủ tục luật định, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng hoặc giao dịch có thỏa thuận khác;
– Hợp đồng và giao dịch được công chứng sẽ có giá trị chứng cứ, những tình tiết và sự kiện trong hợp đồng và giao dịch được công chứng sẽ không phải chứng minh, chưa trường hợp bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hợp đồng và giao dịch vô hiệu;
– Bản dịch được công chúng sẽ có giá trị sử dụng như các loại giấy tờ và văn bản được dịch.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 52 của Luật công chứng năm 2018 có quy định về người có quyền đề nghị tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Theo đó thì công chứng viên hoặc người yêu cầu công chứng, người làm chứng hoặc người phiên dịch, người có quyền lợi liên quan hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị đến tòa án yêu cầu tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công trình đó vi phạm quy định của pháp luật.
Như vậy có thể nói, hợp đồng tặng cho khi đã có hiệu lực trên thực tế thì các bên cần phải thực hiện theo hợp đồng tặng cho đó. Một bên sẽ không thể đơn phương yêu cầu hủy bỏ hợp đồng tặng cho. Tuy nhiên nếu trong quá trình lập hợp đồng tặng cho, nếu hợp đồng tặng cho có điều khoản quy định về việc hủy bỏ hợp đồng tặng cho khi một trong hai bên mất đi hoặc hợp đồng tặng cho đó vi phạm quy định về mặt hình thức của văn bản công chứng, thì một bên sẽ có quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
2. Các bản án hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
Hiện nay đã có nhiều bản án yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất tại tòa án. Dưới đây là một số bản án điển hình:
2.1. Bản án số 07/2022/DS-PT của Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình về yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất:
Theo nội dung vụ kiện, được biết: Ông A và bà D được nhà nước cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 1.248m2 tại xóm M, xã TM, huyện Kỳ S (nay là Tổ dân phố M, phường TM, thành phố Hòa Bình), tỉnh Hòa Bình ngày 07/9/2000. Ngày 28/5/2015 vợ chồng ông A và bà D lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất theo quy định của pháp luật đối với diện tích đất 1.248m2 trên cho con dâu là chị Nguyễn Thị Hải N và cháu nội là Nguyễn Hoàng G tại Phòng công chứng Q. Ngày 09/11/2020 ông T khởi kiện tại tòa án giải quyết một số yêu cầu:
– Công nhận thửa đất với tôgr diện tích là 1.248m2 trên là di sản bố mẹ để lại;
– Chia di sản thừa kế;
– Hủy giao dịch dân sự và tiến hành hoạt động hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông A bà D và chị N, cháu G, không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy giao dịch, hợp đồng.
Xét thấy: Hồ sơ khởi kiện mà các bên đã nộp thể hiện nguồn gốc của tài sản (quyền sử dụng đất) đối với các thửa số 133.321.322 nằm trong mảnh đất có diện tích hơn 2000m2 nêu trên là của cụ Dịnh và cụ Bài, khoảng năm 1985, 2 cụ cắt cho con trai thứ 3 nguyễn Văn T (vợ là Nguyễn thị Lệ) 800m2. năm 1987 cụ Dịnh chết, năm 1989 cụ Bài chết không để lại di chúc. Sau khi các cụ chết, ông A bà D tiếp tục sinh sống trến 1.248 m2 ở cùng con trai và nuôi chị gái cả là bà Nguyễn Thị Giới, và sử dụng diện tích đất trên ổn định, không có tranh chấp, năm 1993 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng trong năm 1993 ông bà A D phá bỏ nhà sàn và xây nhà mái bằng khoảng 70m2. Năm 2000 nhà nước đo đạc chính quy và được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thuế đất hàng năm ông bà A D đóng đầy đủ. Năm 2018 ông bà A D phá bỏ nhà 1 tầng, nay đã xây dựng nhà kiên cố là nhà mái thái nguồn tiền là của ông bà A D và chị N không của ai khác. Hiện nay toàn bộ nhà cửa hoa màu là của gia đình ông bà A D và chị N. Trong quá trình xây dựng nhà mái bằng và nhà mái thái anh em trong gia đình không ai có ý kiến phản đối gì và cũng không có tranh chấp. Do đó việc anh T và những người liên quan cho rằng vợ chồng A D tự ý kê khai giấy tờ đất ông T không biết là không có cơ sở, N vậy có căn cứ khẳng định lời khai của vợ chồng ông bà A D về việc các cụ cho diện tích đất 1.248 m2 trên là có cơ sở.
Như vậy, việc cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T: Tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa bà Đinh Thị D, ông Nguyễn Văn A và chị Nguyễn Thị Hải N, cháu Nguyễn Hoàng G được công chứng ngày 28/5/2015 theo Hợp đồng công chứng số 729, 730, 731 tại Phòng công chứng Q là vô hiệu, và đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc yêu cầu chia thừa kế và công nhận quyền sở hữu tài sản là không đúng quy định của pháp luật.
2.2. Bản án số 91/2023/DS-ST của Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vô hiệu:
Nguyên đơn: Bà Hà Thu S – Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh; Địa chỉ: Số A Đường Đ, khu phố A, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin vắng mặt.
Bị đơn: Ông Võ Hùng S1, sinh năm: 1953; Địa chỉ: Số A Đường số A, chung cư B, xã T, Huyện C, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trương Thị Tuyết M, sinh năm: 1956; Địa chỉ: Số A Đường số A, chung cư B, xã T, Huyện C, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin vắng mặt. Và ông Võ Hùng V, sinh năm: 1979; Địa chỉ: Khu phố A, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin vắng mặt.
Nội dung như sau: Bà S là chấp hành viên Cục thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang thụ lý thi hành bản án hình sự sơ thẩm số 95/2008/HSST ngày 22/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Theo nội dung của bản án hình sự tuyên thì buộc các ông Lê Phát L, Võ Hùng S1, Nguyễn Văn P, Phạm Văn C, Võ Ngoan H có trách nhiệm liên đới trả cho Ủy ban nhân dân tỉnh T số tiền là 3.836.586.002 đồng. Trong đó, ông Võ Hùng S1 phải trả số tiền là 800.000.000 đồng. Ông S1 đã thi hành được 200.000.000 đồng, hiện còn lại 600.000.000 đồng và lãi suất chậm trả chưa thi hành. Do ông S1 cư trú tại nhà số A, Đường số A, chung cư B, xã Tị huyện C, tỉnh Tây Ninh nên biên bản xác minh trước đó chưa phát hiện ông S1 có tài sản tại thành phố T.
Theo thông tin ông Võ Ngoan H cung cấp, qua kết quả xác minh điều kiện thi hành án của ông S1 thì Chấp hành viên được biết ông S1 có nhà và đất tại thừa số 74 tờ bản đồ số 17 nay là thừa số 51 tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại khu phố A, Phường C, thành phố T, tỉnh Tây Ninh và đã được ông S1 cùng vợ là bà Trương Thị Tuyết M tặng cho con trai là ông Võ Hùng V theo theo số công chứng 1846 quyển số 3 TP CC-SCC/HĐGD ngày 27/8/2013 tại Văn phòng C1, hiện nay ông V đã đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.. Thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 75 của Luật Thi hành án dân sự 2014, do hết thời hạn mà Ủy ban nhân dân tỉnh T không khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự giữa ông S1, bà M với ông V vô hiệu nên bà S là Chấp hành viên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bên cho là ông Võ Hùng S1, bà Trương Thị Tuyết M với bên nhận là ông Võ Hùng V theo số công chứng 1846 quyền số 3 TPCC-SCC HĐGD ngày 27/8/2013 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Gia T đối với nhà và đất tại thừa số 74 tờ bản đồ số 17 nay là thừa số 51 tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại khu phố A. Phưởng C. thành phố T, tinh Tây Ninh là vô hiệu. Lý do yêu cầu tuyên bố vô hiệu là do ông S1 tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Sau quá trình đánh giá, tòa án tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hà Thu S đối với ông Võ Hùng S1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trương Thị Tuyết M và ông Võ Hùng V về “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu”.
2.3. Bản án số 62/2023/DS-ST của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất:
Nguyên đơn: Ông Phạm Văn C, sinh năm 1949. Nơi cư trú số 16/6, ấp , xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt). Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Clà ông Đào Công H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bến Tre (có mặt).
Bị đơn: Ông Phạm Thanh P, sinh năm 1975. Nơi cư trú: số 143/6 ấp TKA, xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt)
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: bà Huỳnh Kim T, sinh năm 1982 và bà Phạm Thị Thùy D, sinh năm 2002. Cùng cư trúsố 143/6 ấp TKA, xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre. Bà T, bà D ủy quyền cho ông P tham gia tế tụng.
Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh Bến Tre, do ông Nguyễn Văn C, chức vụ Giám đốc làm đại diện. Ông C ủy quyền cho ông Võ Hiệp T, chức vụ Phó Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Ptham gia tố tụng tại Tòa án (ông T có đơn xin xét xử vắng mặt).
Nội dung như sau: Phân đất có diện tích 323,4m2 thuộc thửa 448, tờ bản đồ 21, toạ lạc tại ấp TKA, xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre có nguồn gốc cha mẹ để lại cho ông. Ngày 02/01/2011, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên. Trước đó ngày 11 tháng 7 năm 2008, ông được Ủy ban nhân dân huyện Ptrao tặng nhà tình nghĩa trên phần đất nàyNăm 2018, ông có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho Nguyễn Văn R 4,5 công đất, thời điểm này ngày 29/5/2018 Phạm Thanh P cấu kết với địa chính xã lập hồ sơ giả mạo tặng cho ông P thửa đất trên. Thời gian gần đây ông phát hiện ông P đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất có diện tích 323,4m2 thuộc thửa 448, tờ bản đồ 21, toạ lạc tại ấp TKA, xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre. Nguyên đơn nhận thấy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông và Phạm Thanh P ký ngày 29/5/2018 là giả mạo, trái với ý chí của ông, xâm phạm trực tiếp quyền lợi ích hợp pháp của ông, nên ông khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: Huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông và ông Phạm Thanh P ký ngày 29 tháng 5 năm 2018 đối với phần đất có diện tích 323,4m2 thuộc thửa 448, tờ bản đồ 21toạ lạc tại ấp TKA, xã MH, huyện P, tỉnh Bến Tre.
Sau quá trình đánh giá, tòa án tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn C. Huỷ một phần hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Phạm Văn C và ông Phạm Thanh P ký ngày 29 tháng 5 năm 2018. Buộc ông Phạm Thanh P, bà Huỳnh Kim T và bà Phạm Thị Thuỳ D tự di dời toàn bộ tài sản để trả lại căn nhà tình nghĩa cho ông Phạm Văn Ctrên một phần thửa đất số 448 (ký hiệu 448i) có diện tích 45,5m2 tờ bản đồ 21 toạ lạc tại ấp TKA, xã MH, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre (có hoạ đồ kèm theo).
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Luật Công chứng năm 2018.