Trong bộ luật tố tụng dân sự quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đó là người sẽ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của Đương sự khi có yêu cầu. Vậy pháp luật dân sự quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự được hiểu như sau: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng có đủ các điều kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.”
2. Đối tượng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự:
2.1. Chủ thể là Luật sư:
Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, và được công nhận quyền tham gia tố tụng. Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập. Trong tố tụng dân sự, Luật sư là một trong những chủ thể tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc là người đại diện theo ủy quyền của đương sự (Khoản 2 Điều 22 Luật Luật sư sửa đổi năm 2012). Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư. Theo quy định tại Điều 10, luật Luật sư năm 2012 thì một người được phép hành nghề Luật sư khi có đủ tiêu chuẩn: “Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư thì có thể hành nghề luật sư”, và “muốn hành nghề Luật sư phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư”. Luật sư khi tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong tố tụng dân sự là một trong những chủ thể tham gia, góp mặt trong các giai đoạn của tố tụng dân sự bằng những hoạt động nghề nghiệp cụ thể của mình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án dân sự. Tùy theo từng loại tranh chấp, Luật sư tham gia giúp đương sự hòa giải, giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp theo đúng quy định, trình tự của pháp luật. Hoạt động nghề nghiệp của Luật sư góp phần bảo vệ công lý, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ, công bằng, văn minh. Như vậy, Luật sư là đối tượng đầu tiên được pháp luật chấp nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự (điểm a khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015).
2.2. Chủ thể là Trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý:
Trợ giúp viên pháp lý là một chức danh ở Việt Nam dùng để chỉ về những người thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý. Họ là viên chức nhà nước và làm việc tại Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, tại Điều 2, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 ghi nhận: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật”. Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định những đối tượng được trợ giúp pháp lý bao gồm: “Người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người thuộc một trong các trường hợp sau đây có khó khăn về tài chính: Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sĩ và người có công nuôi dưỡng khi liệt sĩ còn nhỏ; người nhiễm chất độc da cam; người cao tuổi; người khuyết tật; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự; nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình; nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người; người nhiễm HIV”. Trợ giúp viên pháp lý và người làm công tác trợ giúp pháp lý, theo quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì người thực hiện trợ giúp pháp lý có thể là Trợ giúp viên pháp lý; Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo hợp đồng với Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước; Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo phân công của tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; tư vấn viên pháp luật có 02 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý; cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 24 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 thì Cộng tác viên pháp lý là những người đã nghỉ hưu, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, có nguyện vọng thực hiện trợ giúp pháp lý có thể trở thành cộng tác viên trợ giúp pháp lý, bao gồm: trợ giúp viên pháp lý, thẩm phán, thẩm tra viên ngành Tòa án; kiểm sát viên, kiểm tra viên ngành kiểm sát; điều tra viên; chấp hành viên, thẩm tra viên thi hành án dân sự, chuyên viên làm công tác pháp luật tại các cơ quan nhà nước được Giám đốc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước đề nghị; Giám đốc Sở Tư pháp cấp thẻ cộng tác viên trợ giúp pháp lý.
Các trợ giúp viên pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý được thực hiện trợ giúp pháp lý trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Các hình thức trợ giúp pháp lý bao gồm: Tham gia tố tụng; tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng theo điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
2.3. Chủ thể là đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động:
Công đoàn trực tiếp bảo vệ quyền lợi người lao động trong nhiều lĩnh vực, đại diện cho tập thể người lao động khi có tranh chấp trong lĩnh vực lao động. Vấn đề công đoàn thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động ngày càng được chú trọng hơn, được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau. Theo pháp luật về lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở là Ban chấp hành Công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành Công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở nơi chưa thành lập Công đoàn cơ sở. Đại diện Ban chấp hành Công đoàn sẽ là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tham gia tố tụng dân sự đối với những tranh chấp, yêu cầu lao động được liệt kê tại Điều 32, 33 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
2.4. Chủ thể là công dân Việt Nam:
Công dân Việt Nam muốn trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì phải đáp ứng các điều kiện được quy định tại điểm d khoản 2 Điều Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 : Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; không phải là cán bộ, công chức ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an.
Đây là quy định “mở” của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nhằm tạo điều kiện cho những công dân Việt Nam có hiểu biết pháp luật, mặc dù không có chức danh tư pháp vẫn có thể tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự nhằm bảo đảm quyền lợi cho các đương sự.
Như vậy, theo quy định tại Điều 75 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 chúng ta dễ dàng xác định những đối tượng nào có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Có thể nhận thấy chủ thể có thể làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự khá đa dạng. Trong đó có một số chủ thể chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật đặc thù. Đối với đối tượng là Luật sư, trợ giúp viên pháp lý hoặc người trợ giúp pháp lý, đại diện của tổ chức đại diện tập thể lao động đều có quy định pháp luật chuyên ngành hướng dẫn cụ thể. Chỉ còn đối tượng là công dân Việt Nam được quy định cụ thể tại Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Nhưng khi muốn trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự họ đều phải đảm bảo điều kiện để có thể thực hiện được nhiệm vụ bảo vệ cho đương sự của mình. Tuy nhiên, quy định này đã bộc lộ một số hạn chế và thiếu sót nhất định.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự có quyền và nghĩa vụ gì?
– Tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào trong quá trình tố tụng dân sự.
– Thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
– Tham gia việc hòa giải, phiên họp, phiên tòa hoặc trường hợp không tham gia thì được gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cho Tòa án xem xét.
– Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác theo quy định của Bộ luật này.
– Giúp đương sự về mặt pháp lý liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ; trường hợp được đương sự ủy quyền thì thay mặt đương sự nhận giấy tờ, văn bản tố tụng mà Tòa án tống đạt hoặc thông báo và có trách nhiệm chuyển cho đương sự.
– Các quyền, nghĩa vụ quy định tại các khoản 1, 6, 16, 17, 18, 19 và khoản 20 Điều 70 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015.
– Quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
Các văn bản pháp luật được sử dụng:
– Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
– Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017;
–