Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc mặt chủ quan của người phạm tội bao gồm 7 tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Có thể phân loại các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan của người phạm tội, gồm có:
1) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
2) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
3) Phạm tội lần đầu hoặc thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
4) Người phạm tội tự thú;
5) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
6) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
7) Người phạm tội đã lập công chuộc tội
Mục lục bài viết
- 1 1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
- 2 2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
- 3 3. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
- 4 4. Người phạm tội tự thú (điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
- 5 6. Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
- 6 7. Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
Như đã phân tích ở phần lý luận chung, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, vì thế nếu người phạm tội có các hành vi nhằm ngăn chặn xuất phát từ nhận thức , ý chí của người phạm tội với mục đích làm giảm bớt sự thiệt hại mà các chủ thể này đã gây ra thì mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội tương ứng đã giảm xuống so với các trường hợp tương tự khác.
“Ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm là trường hợp người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm (do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý) đã có hành vi không làm cho tác hại của tội phạm xảy ra hoặc làm giảm bớt tác hại của nó.”16 Ở đây, khi xét theo các dấu | hiệu cấu thành tội phạm, có thể thấy :
– Trường hợp 1, xuất phát từ lỗi vô ý vì quá tự tin của người phạm tội: Người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện. Người phạm tội thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội mà hành vi của mình có thể xảy ra. Người phạm tội không mong muốn cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình xảy ra, cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra mà cho rằng hậu quả nguy | hiểm cho xã hội sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Trường hợp 2, xuất phát từ lỗi vô ý do cẩu thả của người phạm tội: Sự vô ý do cẩu thả không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà vốn dĩ người đó có nghĩa vụ phải thấy trước và đủ điều kiện để thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội bởi hành vi của mình nếu như họ có sự chú ý cần thiết. Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội là do sự cẩu thả, thiếu sự quan tâm, cẩn thận nên đã vi phạm những quy tắc an toàn xã hội thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như các quy định về phòng cháy, về khám chữa bệnh, an toàn giao thông, an toàn lao động... khi thực hiện hành vi nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Trong cả 2 trường hợp nếu trên đều xuất phát từ dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
Trong thực tiễn, tình tiết ngăn chặn của người phạm tội thể hiện ở việc người phạm tội đã có những hành động, biện pháp cụ thể hạn chế tác hại do hành vi phạm tội của mình gây ra như sau khi vô ý sử dụng công cụ, vật liệu dẫn đến làm cháy nhà đã lao vào chữa cháy, cứu người bị nạn, tài sản hoặc sau khi gây thương tích cho người bị hại đã nhanh chóng đưa họ đi cấp cứu. Sự kết hợp giữa thái hộ tích cực – xuất phát từ ý chí của người phạm tội mong ngăn chặn được tác hại của tội phạm và tác hại đó trên thực tế đã được hạn chế hoặc được ngăn chặn là cơ sở giảm nhẹ TNHS của tình tiết này.
Luật chỉ quy định đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại chứ không quy định đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt thiệt hại. Nên cần phân biệt rõ tác hại và thiệt hại, vì đây là yếu tố để xác định đây có phải là tình tiết giảm nhẹ thuộc mặt chủ quan hay không. Thiệt hại là “mất mát, hư hỏng nặng nề về người và của” còn tác hại là “điều có hại”18. Khái niệm thiệt hại và tác hại là hai khái niệm không giống nhau, hai khái niệm này chỉ có thể trùng nhau trong một số trường hợp, ví dụ thiệt hại và tác hại của hành vi gây thương tích cho người khác thì là một nhưng với trường hợp một người thực hiện hành vi buôn bán trái phép chất ma túy thì thiệt hại của tội phạm là số lượng chất ma túy buôn bán trái phép trong khi tác hại là những ảnh hưởng xấu của chất ma túy đối với xã hội, sức khỏe con người. Do vậy, đối với trường hợp này thì tác hại và thiệt hại không phải là một.
Việc thực hiện hành vi ngăn chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm có thể do bản thân chủ thể thực hiện hành vi phạm tội tự phạm làm, tức là xuất phát từ ý chí của người phạm tội hoặc do chủ thể khác giúp đỡ, khuyên bảo, yêu cầu bắt buộc thực hiện. Do đó, điều luật quy định “đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại” chứ không quy định “tự ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại”. Mức độ làm giảm nhẹ TNHS sẽ phụ thuộc vào thái độ của người phạm tội đối với việc ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại, khi quyết định hình phạt, hội đồng xét xử thường đề cao việc chủ thể tự mình hành động sẽ được giảm nhẹ TNHS hơn các trường hợp phải để người khác khuyên bảo hoặc bắt buộc.
Hành động ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại tồn tại trên thực tế và đã ngăn chặn được tác hại nếu hành vi này chỉ xảy ra dưới hình thức là một khả năng nhưng không ngăn chặn được hoặc không làm giảm bớt hậu quả của hành vi thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ.
Ví dụ: Nguyễn Văn Anh (A) đánh nhau với Phạm Thị Bích (B) bên bờ sông, A đã đẩy ngã B xuống sông. Biết B không biết bơi, A sợ xảy ra hậu quả B chết đuối nên đã nhảy xuống sông cứu B nhưng bơi gần ra giữa sông thì A đuối sức bị ngợp nước, A tâm lý sợ mình chết đuối nên lại vội vàng bơi vào bờ. Hậu quả là B vẫn bị chết đuối. Trường hợp này của A không được coi là có tình tiết giảm nhẹ ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm. Nhưng cũng trong tình huống này, A sợ xảy ra hậu quả B chết nên đã nhảy xuống cứu B và cứu được B, mặc dù trên thực tế B vẫn phải đưa đi cấp cứu vì đuối nước, thì trong trường hợp này, việc ngăn chặn của A đã làm giảm bớt tác hại xảy ra.
Đây được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan vì xuất phát từ ý chí của người phạm tội.
Như vậy, để có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS thì hành động của người phạm tội phải thực sự ngăn chặn được hoặc làm giảm bớt được tác hại, nếu họ có hành động nhưng không làm thay đổi kết quả thì không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.
2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
Khi xét theo yếu tố cấu thành tội phạm, trường hợp này hậu quả của tội phạm đã xảy ra trên thực tế có thể được xếp vào mặt khách quan của tội phạm. Nhưng xét theo phương diện rộng – yếu tố chủ quan của tội phạm thì trong trường hợp này chủ thể thực hiện hành vi đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường những thiệt hại do mình gây ra cho bên bị thiệt hại hoặc đã tự nguyện khắc phục hậu quả của tội phạm. Nghĩa là xuất phát từ nhận thức và ý chí của người phạm tội dẫn đến hành động tự nguyện sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục những thiệt hại do mình gây ra.
Khi nghiên cứu, tác giả thấy rằng có quan điểm cho rằng, 3 hành vi: sửa chữa, bồi thường và khắc phục thiệt hại là một chuỗi các hành vi và chỉ được coi là một tình tiết giảm nhẹ TNHS chung và vì tình tiết này được quy định trong một điều luật và đa số người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả đều thể hiện ý nguyện giải quyết hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra và kết quả thực hiện hành vi này đã ngăn chặn được hậu quả xảy ra của hành vi. Tác giả cho rằng, khắc phục, bồi thường, sửa chữa là ba hành vi có nội dung khác nhau nhưng cùng một tính chất nhằm khắc phục hậu quả tội phạm gây ra nên có thể nói điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định ba tình tiết giảm nhẹ cùng nằm trong một điều luật chứ không chỉ là một tình tiết giảm nhẹ.
“Sửa chữa là chữa lại những cái mà hành vi phạm tội đã gây hư hỏng, làm cho cái đã bị hỏng do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra trở lại trạng thái bình thường có thể được như ban đầu”19. Ví dụ: Sửa lại chiếc bàn bị gãy chân, lợp lại mái nhà bị vỡ ngói... Tuy nhiên, trên thực tế có một số trường hợp các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điều luật khác nhau nhưng lại bị lầm tưởng giống nhau hành động sửa chữa được hiểu nhầm là hành vi khác và ngược lại. Ví dụ: Trong một vụ việc cố ý gây thương tích, người phạm thội sau khi thực hiện hành vi thấy bị hại bị thương, vết thương chảy nhiều máu nên đã băng bó vết thương và đưa bị hại đi bệnh viện cấp cứu. Hành động này được thực hiện với mục đích là để ngăn chặn hậu quả thiệt hại do hành vi gây ra ngay sau khi hành vi hoàn thành chứ không phải là khắc phục hậu quả của hành vi.
“Bồi thường là việc chủ thể thực hiện tội phạm đền bù thiệt hại do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra, hậu quả này có thể là không thu hồi lại được, làm mất mát, hư hỏng không thể sửa chữa được”20. Ví dụ: Một người do bực tức người bạn thân của mình nên đã đập phá một chiếc xe của một người bạn thân, sau khi hành vi xảy ra, cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe và tiến hành giám định thiệt hại là hư hỏng hay hủy hoại, và định giá giá trị chiếc xe để làm căn cứ để khởi tố vụ án kết quả chiếc xe bị hư hỏng nặng và không có khả năng sửa chữa nên hành vi này là hành vi hủy hoại tài sản. Để khắc phục hậu quả tội phạm nên chủ thể phạm tội đã tự nguyện trả cho người bạn của mình một khoản tiền bằng giá trị chiếc xe bị đã bị hủy hoại. Chỉ khi hậu quả của hành vi phạm tội là những gì không thể khắc phục được thì vấn đề bồi thường mới được đặt ra và cũng chỉ bồi thường được những thiệt hại về vật chất chứ không thể bồi thường được những thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Như vậy, đặc trưng của tình tiết tự nguyện bồi thường thiệt hại chỉ giới hạn trong phạm vi những thiệt hại về tài sản (vật chất) còn những thiệt hại về nhân thân con người không thể đặt ra vấn đề bồi thường. Đối với trường cố ý gây thương tích, giết người, các tội xâm phạm nhân thân, nếu người phạm tội tự nguyện đưa cho người bị hại hoặc đại diện của họ tiền chữa bệnh, một mai táng phí, tiền trợ cấp khó khăn về vật chất hoặc tinh thần... thì đó không phải là bồi thường thiệt hại mà chỉ có thể coi đó là tự nguyện khắc phục hậu quả. Công văn 212/TANDTC–PC ngày 13/09/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử có hướng dẫn thêm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự có đồng phạm như sau: Khi xem xét, quyết định trách nhiệm bồi thường thiệt hại Tòa án căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án có đồng phạm được thực hiện theo quy định tại Điều 587 của Bộ luật Dân sự, theo đó thì “Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau”. Ngoài ra, để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong vụ án hình sự thì Tòa án có thể tham khảo thêm hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ–HĐTP ngày 08–7–2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 về “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trong vụ án đồng phạm, dựa vào mức độ lỗi do hành vi của người phạm tội trong vụ án để xác định mức bồi thường của từng cá nhân trong vụ án, nếu trong quá trình điều tra, truy tố, các bị can đã bồi thường thiệt hại cho bị hại tương ứng với mức độ lỗi của bản thân gây ra thì đều phải được áp dụng tình tiết này khi quyết định hình phạt.
“Khắc phục hậu quả là việc chủ thể phạm tội chủ động khắc phục những thiệt hại do hành vi phạm tội gây nên mà những thiệt hại này không thể bồi thường hoặc sửa chữa được”21. Ví dụ: Hậu quả của hành vi phạm tội là một người mẹ trong gia đình bị gây thương tích nặng, không còn khả năng lao động có thể dẫn đến nhiều hậu quả như gia đình thiếu đi một người lao động nên giảm thu nhập, gây khó khăn trong đời sống gia đình. Nếu người phạm tội tự nguyện đưa cho gia đình một khoản tiền để chi trả chi phí chăm sóc các con của người mẹ đó đến tuổi trưởng thành, chi phí chữa bệnhthì được coi là tình tiết giảm nhẹ, khắc phục hậu quả. Việc khắc phục hậu quả chỉ cần các chi phí hợp lý và được bị hại hoặc đại diện gia đình bị hại chấp nhận thì vẫn có thể áp dụng tình tiết này.
Trường hợp quá trình giải quyết vụ án hình sự, xuất hiện hai hoặc ba hành vi giảm bớt trách nhiệm hình sự cùng thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này, nếu người phạm tội chỉ tự nguyện sửa chữa thì xác định người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa thiệt hại, không được xác định cả tình tiết bồi thường hoặc khắc phục hậu quả; nếu người phạm tội vừa tự nguyện sửa chữa, vừa tự nguyện bồi thường, vừa tự nguyện khắc phục hậu quả thì nên coi họ có cả ba tình tiết giảm nhẹ.
Yếu tố tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả là hai yếu tố cấu thành nên tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này. Đây là sự kết hợp giữa thiệt hại trên thực tế đã được khắc phục ở một mức độ nhất định là cơ sở giảm nhẹ TNHS và thái độ tự nguyện xuất phát từ ý chí trong khắc phục hậu quả của tội phạm. Nếu chỉ có một trong hai yếu tố này thì không được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Do đó, mức độ giảm nhẹ TNHS của tình tiết này hoàn toàn phụ thuộc vào cả mức độ sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả lẫn sự tự nguyện, tức là ý chí của người phạm tội mà người phạm tội đã thực hiện. Đây cũng là trường hợp khó khi xếp tình tiết này thuộc tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay thuộc mặt khách quan của tội phạm. Ngoài ra, khi áp dụng tình tiết này cần chú ý một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối với tình tiết tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả, người phạm tội phải xuất phát từ nhận thức và ý chí của bản thân: tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả mới được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan. Nếu hành động này xuất phát do từ việc người khác hoặc của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội tác động dẫn đến chủ thể phạm tội mới khắc phục hậu quả, sửa chữa hoặc bồi thường thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan mà có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Tại mục 1.1 Nghị quyết số 01/2006/NQ–HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự hướng dẫn sự tự nguyện của người phạm tội bao gồm cả các trường hợp khác như sau:
“a) Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
b) Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản;
c) Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thànhniên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, những người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
d) Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, những người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu;
đ) Bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn...) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;
e) Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu bị cáo không có tài sản để bồi thường và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ”
Thứ hai, để xác định thời điểm và mức độ để coi là tự nguyện khắc phục hậu quả, sửa chữa, bồi thường thiệt hại, ta cần căn cứ vào thời điểm mà người phạm tội thực hiện việc đó, nếu người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm thì đây là trường hợp đương nhiên được hưởng tình tiết này. Nhưng nếu việc bồi thường thiệt hại có thể diễn ra ngay trong phiên tòa và được bị hại hoặc đại diện gia đình bị hại đồng ý thì có thể xem xét để áp dụng tính tình tiết này cho bị cáo.
Ngoài ra, điều luật không quy định rõ người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả ở mức độ nào, toàn bộ hay một phần so với thiệt hại hoặc hậu quả mà họ gây ra thì được hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Qua thực tiễn xét xử, tòa án vẫn coi trường hợp người phạm tội chỉ sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả một phần đều là tình tiết giảm nhẹ miễn là xuất phát từ ý chí tự nguyện của người phạm tội thì được xếp vào tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan. Trên thực tiễn, việc bồi thường hoặc khắc phục toàn bộ thiệt hại do tội phạm gây ra là căn cứ để giảm nhẹ đáng kể mức độ TNHS. Điều này khuyến khích người phạm tội huy động mọi nguồn lực kinh tế để thực hiện việc bồi thường. Khi đánh giá mức sửa chữa, bồi thường hoặc khắc phục để giảm nhẹ TNHS như thế nào cũng cần phải căn cứ vào thiệt hại đã xảy ra so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người phạm tội.
Trường hợp xét thấy ý thức người phạm tội đã cố gắng hết sức với khả năng của mình như đi bán tài sản, đi vay, mượn... để sửa chữa, bồi thường thiệt hại nhưng mới chỉ bù lại phần nào thiệt hại vì thiệt hại gây ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt cũng như lâu dài của họ thì cần đưa Tòa án xem xét khả năng để cho họ được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS này ở mức cao hơn những trường hợp khác.
Cùng một tình tiết giảm nhẹ nhưng đối với tội phạm khác nhau thì mức độ giảm nhẹ cũng khác nhau, cùng phạm một tội và cùng có tình tiết giảm nhẹ như nhau nhưng đối với bị cáo khác nhau thì mức độ giảm nhẹ cũng khác nhau; mức độ giảm nhẹ của mỗi tình tiết còn phụ thuộc vào những điều kiện khách quan khi hành vi phạm tội được thực hiện... Vì vậy, khi xác định mức độ giảm nhẹ của các tình tiết cần phải căn cứ vào hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện, các yếu tố khách quan khác có liên quan đến vụ án để áp dụng mức hình phạt cho phù hợp. Ví dụ: Một bị cáo gây thiệt hại 700 triệu đồng nhưng có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn đã bán hết các tài sản có giá trị, vay mượn người khác để bồi thường thiệt hại cũng chỉ được 350 triệu đồng thì mức độ giảm nhẹ sẽ nhiều hơn so với một bị cáo cũng gây thiệt hại 700 triệu đồng và cũng bồi thường được 350 triệu đồng nhưng thu nhập hàng tháng trên một tỷ đồng.
Ngoài ra, cần phân biệt tình tiết “tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” với tình tiết “ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm”. Nếu trong trường hợp thứ hai tác hại của tội phạm đang trong quá trình phát sinh mà người phạm tội đã có hành động chủ động ngăn chặn tác hại của nó thì trong trường hợp thứ nhất, hậu quả của tội phạm đã xảy ra trên thực tế, người phạm tội chỉ có hành vi khắc phục những thiệt hại đó. Điều này ảnh hưởng đến đánh giá về giá trị giảm nhẹ TNHS của mỗi tình tiết. Tình tiết ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm cần được coi là có mức độ giảm nhẹ TNHS hơn so với tình tiết tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.
Tóm lại, ở tình tiết này , mặc dù sự ảnh hưởng của yếu tố khách quan là có “thiệt hại xảy ra trên thực tế” có thể xếp đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt khách quan. Nhưng khi phân tích dựa trên ý chí và nhận thức xuất phát từ chính người phạm tội, Tòa án có thể xếp đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan.
3. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS 2015):
Tình tiết giảm nhẹ này thể hiện chính sách hình sự của nhà nước là trừng trị kết hợp giáo dục, vừa đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hình phạt vừa thể hiện rõ tính nhân đạo, khoan hồng đối với người phạm tội. Đây không phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS mới được quy định trong BLHS năm 2015 mà nó được quy định trong BLHS Việt Nam từ năm 1985. Về cơ bản, tình tiết này vẫn được giữ nguyên qua nhiều lần BLHS có sửa đổi, bổ sung hoặc thay mới và hiện được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Đồng thời, đây là tình tiết thể hiện sự chiếu cố của nhà lập pháp đối với người chưa bao giờ thực hiện hành vi phạm tội nhưng vì:
– Trường hợp 1, ý chí chủ quan của người phạm tội , xuất phát từ lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người phạm tội dẫn đến hành vi phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong trường hợp này, tình tiết giảm nhẹ TNHS được xếp vào tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan của tội phạm xét theo yếu tố cấu thành tội phạm nếu thỏa mãn được các câu hỏi sau:
(1)Lý trí và ý chí của người phạm tội đối với những biểu hiện bên ngoài (mặt khách quan khi thực hiện hành vi tội phạm như thế nào?
(2) Điều gì thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội ? (động cơ). (3) Người phạm tội nhằm đạt được gì qua việc thực hiện hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội? (mục đích).
– Trường hợp 2, xuất phát từ hoàn cảnh bên ngoài tác động hoặc yếu tố nhân thân của người phạm tội dẫn đến hành vi phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng . Trong trường hợp này, tình tiết giảm nhẹ TNHS không thuộc mặt chủ quan của tội phạm.
Để áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đòi hỏi người phạm tội phải thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện đó là : phạm tội lần đầu và phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hay nói cách khác, nếu tách hai nội dung này ra thì giữa “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” không liên quan gì với nhau, nhưng nhà làm luật quy định: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” là một tình tiết giảm nhẹ với việc dùng liên từ “và” để gắn hai nội dung (hai vế) với nhau thì cả hai nội dung (hai vế) là điều kiện cần và đủ để xác định có được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hay không. Tuy nhiên khi xác định nội dung tình tiết giảm nhẹ này thì chúng ta phải xác định từng vế, trên cơ sở đó mới có thể xác định người phạm tội có thuộc trường hợp tình tiết giảm nhẹ TNHS nói chung, tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay không.
Tình tiết “phạm tội lần đầu” chỉ có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nếu việc lần đầu phạm tội đó “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. “Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chính là vế thứ hai, để khẳng định xác thực rằng đây chính là điều kiện cần và đủ của tình tiết giảm nhẹ TNHS này.
- Phạm tội lần đầu
Sau khi Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật, tại Công văn số | 01/2017/GĐ–TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải đáp về tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS được hiểu như sau: Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Song, có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất, phạm tội lần đầu là lần đầu bị đưa ra xét xử, vì chỉ có Toà án mới có thẩm quyền quyết định hình phạt, một người chỉ bị Toà án đưa ra xét xử thì mới có việc quyết định hình phạt và chỉ khi quyết định hình phạt thì Toà án mới căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ. Nếu người phạm tội đã có nhiều lần phạm tội nhưng chưa có lần nào bị Toà án kết án thì vẫn được coi là phạm tội lần đầu.
Quan điểm thứ hai, phạm tội lần đầu là lần đầu tiên bị kết án. Quan điểm nầy cho rằng để được coi là phạm tội lần đầu bao gồm cả trường hợp trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS nay bị truy cứu TNHS trong cùng lần phạm tội sau.
Quan điểm thứ ba, phạm tội lần đầu đầu là từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào. Quan điểm này cho rằng phạm tội lần nào là phải chưa từng có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm một trong những khách thể được Luật hình sự bảo vệ thỏa mãn các dấu hiệu về tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015, cụ thể “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.”. Cá nhân tác giả ủng hộ quan điểm này, vì luật quy định “phạm tội lần đầu” chứ không quy định “bị kết án lần đầu” hay “bị xét xử lần đầu”. Phạm tội là hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà Luật hình sự bảo vệ, không phụ thuộc vào việc người có hành vi đó bị xử lý như thế nào. Một người có hành vi phạm tội có thể bị Toà án kết án, có thể bị xử phạt hành chính, có thể được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng họ vẫn bị coi là đã phạm tội nên lần phạm tội bị Toà án đang xét xử thì không thể coi là “phạm tội lần đầu” được. “Phạm tội lần đầu là một khái niệm độc lập không liên quan đến các chế định khác có liên quan đến phạm tội nhiều lần như: tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; tiền án hoặc tiền sự. Một người có thể phạm tội nhiều lần nhưng có thể không bị xác định là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm, hoặc không bị xác định là tiền án hoặc tiền sự, nhưng vẫn bị coi là đã tội phạm.”
Khoản 1 Điều 69 BLHS năm 2015 quy định “Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án” chứ không quy định “coi như chưa phạm tội”. Đồng thời, phạm tội lần đầu còn bao gồm cả trường hợp thực tiễn tố tụng được xác định là oan, sai mà bản chất mặc dù có hành vi nguy hiểm cho xã hội được Luật hình sự bảo vệ nhưng là hành vi không có lỗi hoặc không thỏa mãn mặt khách quan của một loại tội cụ thể trong BLHS.23
Ngày 24/4/2018 Hội đồng thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết 01/2018/NQ–HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 66 và 106 BLHS về tha tù trước thời hạn có điều kiện. Trong nghị quyết này tại khoản 2 Điều 2 có quy định về trường hợp phạm tội lần đầu cụ thể như sau:
“Các trường hợp được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Trước đó chưa phạm tội lần nào;
b) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự;
c) Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng;
d) Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích.”
Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 2 Nghị quyết này thì có thể coi là phạm tội lần đầu trong trường hợp bị cáo trước đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích. Bộ luật Hình sự quy định một số trường hợp được coi là không có án tích, cụ thể:
Khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự quy định: “Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”
Khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người dưới 18 tuổi được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
b) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng do vô ý
c) Người bị áp dụng biện pháp tư pháp quy định tại Mục 3 Chương này.”
Căn cứ quy định trên, người bị kết án thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 69 và các điểm a, b, c khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự thì được coi là không có án tích. Khi những người này phạm tội thì có thể xem xét áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu.
Tuy nhiên nếu chỉ phạm tội lần đầu mà thuộc trường hợp nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ, mà chỉ thuộc trường hợp ít nghiêm trọng thì mới được coi là tình tiết giảm nhẹ. Do đó, Bộ luật hình sự quy định “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng“.
- Thuộc trường hợp ít nghiêm trọng
Có quan điểm cho rằng trường hợp ít nghiêm trọng được hiểu như là tội phạm ít nghiêm trọng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015.
Quan điểm trên đã thống nhất hai khái niệm “ phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” với “Tội phạm ít nghiêm trọng”.
Theo quan điểm này thì trường hợp ít nghiêm trọng được hiểu là trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với trường hợp ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm. Theo đó, tác giả cho rằng đây là hai trường hợp hoàn toàn khác nhau cần phải được phân biệt rõ ràng. “Tiêu chí để xác định tội phạm đó là không qua 03 năm tù còn tiêu chí để xác định trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng lại dựa vào mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội được xác định trên thực tế”24 Mức độ nghiêm trọng đó được xác định bằng tổng hợp nhiều căn cứ như mức độ nguy hiểm cho xã hooij của hành vi tương thích với mức thấp nhất của khung hình phạt, vai trò tham gia thực hiện tội phạm là thứ yếu... Chính vì thế, ngoài những tội ít nghiêm trọng, người phạm tội lần đầu đối với các tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, người phạm tội lần đầu đối với các tội đặc biệt của vụ án làm cho trường hợp hợp pháp tội cụ thể đó trở thành ít nghiêm trọng thì cũng thuộc trường hợp trên.
Hiểu theo phương diện này cũng thống nhất với quan điểm của nhà làm luật thể hiện trong kỹ thuật lập pháp được sử dụng tại các Điều 110, 114, 115, 116, 119 của BLHS năm 2015. Trong cấu trúc các điều luật này tại khoản 1 cấu thành cơ bản đều có mức hình phạt cao nhất rất nghiêm khắc (đến 15 năm tù đối với Điều 115, 116 BLHS năm 2015; tù chung thân đối với Điều 119 BLHS năm 2015; tử hình đối với dấu hiệu “phạm tội trong trường hợp ít nghiêm trọng” thì mức hình phạt cao nhất được giảm đi một cách đáng kể (đến 07 năm tù đối với Điều 115, 116 BLHS năm 2015; đến 10 năm tù đối với Điều 119 BLHS năm 2015; đến 15 năm tù đối với các Điều 110, 114 BLHS năm 2015) mà nếu xét theo phân loại tội phạm thì các trường hợp đó có thể thuộc tội phạm nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Vì vậy, tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” chỉ áp dụng đối với các tội phạm mà nhà làm luật không quy định là tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt.
4. Người phạm tội tự thú (điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
Như đã phân tích đặc điểm của tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan, thì thấy rằng để xem xét một tình tiết có thuộc vào tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay không, phải xem xét các yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Trước hết phải hiểu tự thú là gì?
Trước khi ra đời BLHS năm 1999, tự thú và đầu thu không phân biệt rõ mà được hiểu chung trên một thuật ngữ là tự thú. Điều đó có nghĩa là khái niệm tự thú được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả đầu thú. Nhưng kể từ sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực, xét thấy việc người phạm tội tự thú và đầu thú đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 là không công bằng nên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành công văn số 81/2002/TANDTC ngày 10/6/2002 trong đó có phân biệt rõ ràng trường hợp áp dụng đầu thú và tự thú là khác nhau.
Pháp luật hiện hành đưa ra khái niệm tự thú được quy định cụ thể tại điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện”. Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi, bổ sung khái niệm về tự thú cụ thể hơn so với trước đây. Sự thay đổi này là hợp lý và cần thiết bởi lẽ theo cách hiểu trước đây thì tự thú chỉ được thừa nhận khi cơ quan chức năng chưa biết việc phạm tội và người phạm tội. Vấn đề đặt ra là có nhất thiết tự thú phải được hiểu bao gồm đủ hai yếu tố: việc phạm tội chưa bị phát hiện và người phạm tội chưa bị phát giác. Trong thực tiễn, có trường hợp việc phạm tội đã bị phát hiện nhưng cơ quan chức năng không tìm được thủ phạm. Trong bối cảnh ấy, một người đã tự nguyện thừa nhận tội lỗi đã thực hiện thì có được coi là tự thú không? Thực tế việc phát hiện một tội phạm xảy ra thường khá dễ dàng do những tác hại mà nó gây ra. Nhưng không phải vụ án nào cũng xác định được người thực hiện tội phạm. Trong trường hợp cơ quan có trách nhiệm chưa phát giác ra người phạm tội thì khả năng trốn tránh pháp luật là khá cao, đặc biệt xảy ra ở vụ án không có nhân chứng, ít để lại dấu vết tại hiện trường.
Như thế, khi xét yếu tố chủ quan của tội phạm có thể thấy trong hoàn cảnh như vậy mà tự nhận mình là người phạm tội – tức là xuất phát từ ý chí và nhận thức của bản thân người phạm tội cũng thể hiện tâm lý đặc biệt của người tự thú: tự mình nhận tội và khai ra hành vi phạm tội của mình, trong khi chưa ai phát hiện được mình phạm tội. Hoặc trường hợp bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra vẫn tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện. Thái độ hối lỗi sâu sắc, tự nguyện nhận trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình trong điều kiện chưa có một sự tác động đặc biệt nào từ phía nhà nước cho thấy nhân tố tích cực hướng thiện của người phạm tội. Đồng thời, qua đây có thể thấy xuất phát từ ý thức và nhận thức bên trong của bản thân người phạm tội đã phát sinh ra hành động biểu hiện ra bên ngoài. Đây chính là tình tiết thuộc mặt chủ quan để xem xét giảm nhẹ TNHS. Song cũng là một trong những tình tiết để xem xét miễn giảm TNHS (trường hợp người phạm tội tự thú nhưng chưa đạt đến mức miễn TNHS thì được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015).
Cần phải phân biệt giữa khái niệm đầu thú và tự thú. Khái niệm đầu thú được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, theo đó “Đầu thú là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của minh”. Đối với trường hợp đầu thú cũng được sửa đổi, bổ sung hợp lý bởi công văn 81/2002/TANDTC quy định đồng thời hai điều kiện: “có người đã biết mình phạm tội” và “biết không thể trốn tránh được nên đến cơ quan có thẩm quyền trình diện” để đánh giá là người phạm tội “đầu thú”. Nếu áp dụng như vậy, sẽ có một trường hợp bất cập: Gia sư người thực hiện tội phạm đã bị người khác phát hiện ra hanh vi của mình, tuy nhiên người đó có đủ thời gian và điều kiện để trốn tránh nhưng lại không bỏ trốn và đến cơ quan chức năng trình diện, khai báo thì sẽ áp dụng rất khó trên thực tế. Có thể thấy được rằng, người thực hiện hành vi tội phạm biết bản thân đã bị phát hiện , đương nhiên sẽ không được xem là “tự thú” nếu ra trinh diện, nhưng xét theo hướng dẫn thì trường hợp đó cũng không được xem là “đầu thú” vì người này hoàn toàn có thể lẩn trốn đối với hành vi của minh. Song, sau khi đầu thú người phạm tội cũng phải khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của minh. Chính vì thế, nếu người phạm tội sau khi bị phát hiện đã trinh diện cơ quan có thẩm quyền nhưng lại không thành khẩn khai báo thì sẽ không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.
Đầu thú và tự thú là những trường hợp ăn năn hối cải xuất phát từ ý chí của người phạm tội hoặc từ các yếu tố khách quan khác .“Về bản chất, tự thú là việc người phạm tội chấp nhận sự trừng phạt của pháp luật hơn là sự trừng phạt của tòa án lương tâm dù chưa bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện”? Đây chính là cơ sở thực tế tạo tiền đề cho một sự tự nguyện phục thiện dưới sự tác động bình thường của xã hội. Trường hợp sau khi trốn tranh pháp luật mới ra trình diện (đầu thú) để thể hiện việc nhìn nhận tội lỗi của minh chỉ ở một mức độ nhất định. Vì vậy, không thể xếp hai trường hợp này thành một. Cần phải nhìn nhận các trường hợp này vì thông qua đây có thể biết được chính xác giá trị giảm nhẹ TNHS của mỗi tỉnh tiết đảm bảo một đường lối xử lý thích hợp đối với những người tự thú, đầu thú. Với bản chất đó, tự thú là tình tiết có giá trị giảm nhẹ TNHS cao hơn so với đầu thú. Tâm lý đặc biệt của người phạm tội trong trường hợp này phát sinh từ ý chí và nhận thức của người phạm tội trên phương diện mặt chủ quan của tội phạm, quyết định trực tiếp đến tình tiết giảm nhẹ TNHS có thuộc mặt chủ quan hay không. 1.2.5. Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015)
Tuy cùng được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 nhưng thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải có nội dung khác nhau, độc lập với nhau và trong nhiều trường hợp nó không có liên quan đến nhau. Có quan điểm cho rằng tại điểm d khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015 quy định: “Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra” nên “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai tình tiết độc lập nhau. Do đó, theo quan điểm tác giả đồng tình với quan điểm trên coi điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đã quy định hai tình tiết giảm nhẹ trong cùng một điểm. Nếu người phạm tội vừa thành khẩn khai báo vừa ăn năn hối cải thì phải coi là người phạm tội có hai tỉnh tiết giảm nhẹ. Tùy trường hợp xét mặt khách quan hay chủ quan hay yếu tố về nhân thân, có thể xác định được đây là tinh tiết thuộc mặt nào.
Theo Từ điển tiếng Việt thì “thành khẩn” nghĩa là “hết sức thành thật trong khi khai báo, nhận lỗi hay tự phê bình và tiếp thu phê bình”, còn “ăn năn” nghĩa là “cảm thấy day dứt, đau khổ về lỗi lầm của mình”. Về mặt tâm lý, khi một người có thái độ thành khẩn thì họ phải có sự suy nghĩ, đánh giá, nhận thức rõ lỗi lầm của mình để có thể khai báo được một cách trung thực sự việc đã xảy ra. Sự suy nghĩ, đánh giá, nhận thức này chính là một biểu hiện của sự ăn năn. Nếu họ không ăn năn về lỗi lầm của mình thì không thể có thái độ thành khẩn được. Việc cho rằng một người khai báo đầy đủ nhưng lại không biết hành vi của mình là tội phạm hoặc biết hành vi của mình là tội phạm nhưng lại cho rằng mình không sai thì không thể nói là thành khẩn được vì chưa có sự suy nghĩ, đánh giá, nhận thức rõ lỗi lầm của mình. Đây mới chỉ là sự khai báo đúng đắn về hành vi của mình chứ chưa có sự thành khẩn, tức chỉ mới “thành” mà chưa có “khẩn”.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải nhận thức được cách hiểu của nhà làm luật khi dùng dấu phảy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nhà làm luật dùng dấu phảy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Đến BLHS năm 2015, nhà làm luật lại dùng chữ “hoặc” giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Tuy nhiên, đến BLHS năm 2015, nhà làm luật lại quay lại dùng dấu phảy giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” như BLHS năm 1999. Khi dùng chữ “hoặc”, nhà làm luật muốn nhấn mạnh đến việc “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” là hai khái niệm không liên quan đến nhau và được sử dụng độc lập. Nhưng khi xem xét trong cùng một điều luật, tác giả thấy rằng trong BLHS năm 2015 cũng có nhiều quy định được xây dựng theo cách dùng chữ “hoặc” nhằm nhấn mạnh đến tính độc lập khi sử dụng, chẳng hạn: “Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm” (điểm a khoản 1 Điều 51). Việc BLHS năm 2015 không dùng chữ “hoặc” mà lại dùng dấu “,” giữa “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” đã cho thấy cũng có thể nhà làm luật không tách rời độc lập hại tình tiết “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải” mà muốn nhấn mạnh đây là hai tình tiết có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và người phạm tội chỉ có thể được hưởng tình tiết này khi thỏa mãn đồng thời cả “thành khẩn khai báo” và “ăn năn hối cải”. Điều này hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa của từ ngữ được sử dụng để quy định tình tiết như đã phân tích nêu trên.
- Thành khẩn khai báo
Trong thực tiễn xét xử, thành khẩn khai báo được hiểu là trường hợp tội phạm đã bị phát giác nhưng khi điều tra, xét xử, người phạm tội tự nguyện khai báo – xuất phát từ ý chí và nhận thức của chính bản thân người phạm tội và nhận ra tội lỗi. Thành phần khai báo cũng là một dạng của tự thú nhưng khác với tự thú ở chỗ thành khẩn khai báo là việc thừa nhận hanh vi phạm tội và khai rõ sự việc được thực hiện sau khi phạm tội đã bị phát giác và người phạm tội đã bị truy tố trước pháp luật”26 .Theo quy định của pháp luật tố tụng, khai báo không phải là nghĩa vụ của bị can, bị cáo vì nghĩa vụ chwusng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 15 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015). Do đó, bị can, bị cáo không thật thà khai báo cũng sẽ không bị coi là tinh tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng nếu thành khẩn khai báo thì được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Pháp luật khuyến khích người phạm tội thành khẩn khai báo và coi đây là tinh tiết giảm nhẹ TNHS bởi việc khai báo thành khẩn có thể giúp cho cơ quan pháp luật nhanh chóng và kịp thời phá án, buộc những người phạm tội phải chịu TNHS về tội phạm mà họ thực hiện.
Trên thực tế, đối với trường hợp có sự thay đổi thái độ thành khẩn khai báo của người phạm tội trong quá trình tố tụng thì việc áp dụng tinh tiết giảm nhẹ, cụ thể như sau: có trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo tại giai đoạn điều tra nhưng lại quanh co chối tội tại phiên tòa hoặc có trường hợp tại cơ quan điều tra, người phạm tội chưa thành khẩn khai báo nhưng khi ra phiên tòa họ lại thành khẩn thừa nhận tội phạm mà họ đã thực hiện. Theo quan điểm của tác giả, ở trường hợp này chỉ áp dụng đối với bị cáo thành khẩn khai báo trước khi kết thúc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự. Nếu người phạm tội tại giai đoạn điều tra, truy tố đều thành khẩn khai báo nhưng tại giai đoạn xét xử lại quanh co, chối tội thì cũng không được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS này. Nếu người phạm tội khi xét xử sơ thẩm không thành khẩn khai báo do đó không được hưởng tình tiết giảm nhẹ này nhưng tại phiên tòa xét xử phúc thẩmngười phạm tội thành khẩn khai báo thì vẫn cho hưởng tình tiết giảm nhẹ này. Song cũng có quan điểm cho rằng trong quá trình tố tụng vì những nguyên nhân khác nhau mà người phạm tội có thể thay đổi thái độ thành khẩn khai báo. Tuy nhiên, việc thành khẩn khai báo ở giai đoạn tố tụng nào cũng có tác dụng tích cực nhất định cho quá trình điều tra, xét xử. “Đánh giá giá trị giảm nhẹ của tình tiết này không thể đơn thuần nhìn vào thời điểm của sự thành khẩn ở giai đoạn nào trong tố tụng, điều tra hay xét xử” mà phải căn cứ vào ảnh hưởng của việc khai báo thành khẩn đến hiệu quả của hoạt động điều tra, xét xử”27. Ở đây, tác giả cũng đồng thuận với quan điểm này. Việc người phạm tội thành khẩn khai báo càng sớm trong giai đoạn tố tụng cũng phần nào thể hiện sự ăn năn hối cải của người phạm tội với hành vi mà mình gây ra. Đồng thời, việc khai báo thành khẩn cũng phải có giá trị nhất định đến hiệu quả của hoạt động điều tra, xét xử thì mới tạo cơ sở để giảm nhẹ TNHS cho người phạm tội.
Tóm lại, thành khẩn khai báo là trường hợp người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện – xuất phát từ ý chí và nhận thức của chính bản thân người phạm tội dẫn đến hành động trên thực tế được xét là thuộc vào yếu tố chủ quan của tội phạm, dẫn đến đây là tình tiết được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nhưng trong trường hợp người phạm tội sau khi bị phát hiện không khai báo thành khẩn mà phải đấu tranh, khai thác, không thể chối cãi được mới nhận tội thì không được coi là thành khẩn khai báo để giảm nhẹ TNHS. Có thể thấy việc khai báo này của họ không xuất phát từ việc họ nhận thức rõ lỗi lầm của mình mà chỉ là sự xác nhận về nội dung của sự việc đã xảy ra theo những gì mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã chứng minh, thu thập được. Thực tiễn xét xử cho thấy đã không ít tòa án nhận định trong bản án là “mặc dù tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo không nhận tội nhưng tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã nhận tội” để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là không phù hợp bởi lẽ bị cáo chỉ thừa nhận hành vi của mình khi không còn đường lui – tức là không thể chối cãi được nữa.
Ví dụ: Nguyễn Văn A (A) phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có trị giá 300 triệu đồng theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 104 BLHS năm 2015. Trước khi xét xử sơ thẩm, A đã nộp 100 triệu đồng để bồi thường cho bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ là tự nguyện bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, A không được hưởng tình tiết giảm nhẹ nào khác nữa nên Tòa án cấp sơ thẩm phạt A 9 năm tù. Khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử lại xác định bị cáo A có thêm một tình tiết giảm nhẹ TNHS là thành khẩn khai báo nhưng thực tế trong suốt quá trình điều tra, bị cáo A chưa từng bằng ý chí của mình để thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà cho rằng đó chỉ là hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận giữa bị cáo và người bị hại, tức là chưa nhận ra hành vi sai phạm của mình. Tại phiên tòa sơ thẩm, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã chứng minh và bác bỏ lời bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo. Trước khi nghị án, bị cáo biết mình không thể chối cãi được nữa nên mới thừa nhận hành vi phạm tội và xin được giảm nhẹ hình phạt. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm cho rằng bị cáo đã nhận tội chứng tỏ đã thành khẩn khai báo nên đã áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” để áp dụng theo khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 phạt bị cáo A 05 năm tù (dưới mức thấp nhất của khung hình phạt). Việc tòa án cấp phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ này có thể là không sai nhưng xét cả quá trình từ khi bị truy tố đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, mức độ khai báo của người phạm tội không đáng kể, chỉ khi cơ quan tiến hành tố tụng đã có đủ bằng chứng chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo thì bị cáo mới nhận tội. Song, việc tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào sự thành khẩn muộn màng này của bị cáo để áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 xử phạt cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo rõ ràng là không đúng.
Còn trường hợp khi bắt người phạm tội quả tang, tuy hành vi của người phạm tội đã rõ nhưng vẫn chưa được chi tiết, cụ thể mà cần phải tiến hành thêm nhiều biện pháp khác để có thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện. Nếu người phạm tội khai báo đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, ăn năn về hành vi phạm tội của mình thì sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng giải quyết vụ án trong thời gian ngắn nhất. Chẳng hạn người phạm tội khai báo cụ thể về nhân thân của họ (tiền án, tiền sự, gia đình...), khai báo cụ thể về những đồng phạm khác, khai báo cụ thể về những hành vi phạm tội khác của mình…hay khai báo về động cơ, mục đích dẫn đến hành vi phạm tội của mình... thì trường hợp này theo tác giả cho rằng họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Khi xét về mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tùy thuộc vào sự thành khẩn của người phạm tội ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của lời khai thành khẩn đó với việc xác định hành vi phạm tội của họ cũng như của các đồng phạm (nếu vụ án có đồng phạm). Khi xem xét mức độ thì mới có thể xét xem tình tiết này có tình tiết giảm nhẹ TNHS theo yếu tố chủ quan của tội phạm hay không.
- Ăn năn hối cải
Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi phạm tội, người phạm tội cảm thấy bị cắn rứt, giày vò lương tâm về những việc làm của mình; hối hận và muốn được sửa chữa lỗi lầm”28. Người phạm tội ăn năn hối cải không chỉ được thể hiện bằng lời nói mà còn bằng những hành động tích cực chấp hành pháp luật, gương mẫu trong mọi lĩnh vực, sinh hoạt của đời sống xã hội, hối hận với hành vi phạm tội của mình, có thái độ tích cực khắc phục hậu quả, sữa chữa những sai lầm do mình gây ra. Cơ sở giảm nhẹ TNHS của tình tiết này thể hiện thái độ tự nguyện, nhìn nhận tội lỗi, sẵn sàng chấp nhận sự trừng phạt của pháp luật, tức là xuất phát từ chính sự thay đổi nhận thức và ý chí của người phạm tội, thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Đây chính là tiền đề quan trọng cho quá trình cải tạo người phạm tội. Thái độ tích cực của người phạm tội cũng làm tiền đề để cơ quan áp dụng pháp luật tin tưởng vào khả năng thực tế về việc cải hóa người phạm tội.
Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những thành tích mà người phạm tội đã đạt được, thành tích càng nhiều, lập công lớn thì là cơ sở để xem xét mức đố giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, cũng cần đề phòng trường hợp người phạm tội giả vờ ăn năn hối cái để được khoan hồng rồi tiếp tục phạm tội vì khi xem xét mức độ thì mới có thể xét xem tình tiết này có tình tiết giảm nhẹ TNHS theo yếu tố chủ quan của tội phạm hay không.
6. Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
Tích cực hợp tác chính là việc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm. Xuất phát từ ý chí và nhận thức của người phạm tội để biểu hiện ra thái độ chủ động, giúp đỡ nhằm tạo ra những sự biến đổi, thay đổi nhanh hơn trong việc phát hiện và điều tra tội phạm.
Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm là việc người phạm tội đã cung cấp những tin tức, tài liệu, bằng chứng có ý nghĩa thiết thực cho việc phát hiện và điều tra tội phạm. Ngoài việc cung cấp tin tức, người phạm tội bằng những hành động thiết thực của mình đã giúp cơ quan điều tra phát hiện và điều tra tội phạm như chỉ nơi cất giấu tang vật, chỉ nơi những người phạm tội khác đang trốn tránh, cùng cơ quan điều tra đến nơi cất giấu tang vật để thu hồi; cung cấp thông tin về tội phạm khác, người phạm tội khác không liên quan đến mình...
Thái độ tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm để phát hiện tội phạm đã thể hiện sự nhận thức tích cực về tội lỗi mà người phạm tội cùng đồng bọn đã thực hiện hành vi phạm tội. Mặt khác sự hợp tác đó giúp cơ quan có trách nhiệm nhanh chóng tìm ra tội phạm và những người phạm tội khác bảo đảm cuộc sống an lành cho xã hội. Đó là một hoạt động hữu ích cần được khuyến khích, phải được tính tới trong quá trình giải quyết TNHS đối với người phạm tội và là cơ sở giảm nhẹ TNHS của tình tiết này. Theo quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng thì tình tiết này có thể kết hợp với tình tiết tự thú để được hưởng một giá trị giảm nhẹ đặc biệt về TNHS (miễn trách nhiệm hình sự tại điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015).
Mức độ giảm nhẹ TNHS của tình tiết này phụ thuộc vào tính chủ động – tức là tùy theo hành động trên thực tế của người phạm tội xuất phát từ ý chí và nhận thức của người phạm tội, mức độ tích cực giúp đỡ cụ thể; giá trị của những thông tin, tài liệu, bằng chứng mà người phạm tội đã cung cấp, hiệu quả của những hành vi giúp đỡ của người phạm tội mà sẽ quyết định.
Thông qua phân tích, có thể thấy rằng nếu hành động phát sinh trên thực tế của người phạm tội xuất phát từ chính nhận thức và ý chí của họ thì đây được xem xét là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm quyết định đến việc tình tiết này có được xem là tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay không.
7. Người phạm tội đã lập công chuộc tội (điểm u khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015):
“Người phạm tội đã lập công chuộc tội được hiểu là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến trước khi bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác... được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận”29
Cơ sở giảm nhẹ TNHS của tình tiết này thể hiện ở thái độ hối lỗi người phạm tội, không dừng lại ở mức độ tự mình ăn năn hối cải mà còn biến sự hối lỗi đó thành hành động tích cực có ích cho xã hội. Đây được coi như một sự tiến bộ về mức độ phục thiện của người phạm tội để người phạm tội thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và quy tắc của cuộc sống chung. Việc lập công này có thể liên quan trực tiếp đến việc giúp đỡ cơ quan có thẩm quyền điều tra tội phạm hoặc liên quan đến một hoạt động hữu ích khác như có thành tích trong cứu hỏa, chống bão, lụt hoặc trong việc cứu người trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng... có hành động tích cực đáng hoan nghênh nhằm chuộc lại phần nào lỗi lầm mà họ đã gây ra thể hiện sự hối lỗi và quyết tâm cải tạo của người phạm tội.
Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào công trạng của người phạm tội và việc lập công chuộc tội đó ở giai đoạn tố tụng nào (thành tích đạt được và mức độ tích cực của người phạm tội cụ thể). Người phạm tội thậm chí còn có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu như họ lập được công lớn mà tội phạm do họ gây ra chỉ là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng do 1 vô ý (điểm c khoản 2 Điều 29 BLHS năm 2015). Yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội ở tình tiết này rất quan trọng, quyết định đến việc xem xét đây có phải là tình tiết để giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay không. 1.2.8. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác thuộc mặt chủ quan (khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015)
Khoản 2 mở rộng thêm tình tiết đầu thú và tình tiết khác (phụ thuộc vào ý chí của Tòa án và phải ghi rõ trong bản án), Khoản 3 là trường hợp không được coi hay nói đúng hơn là không áp dụng tình tiết giảm nhẹ.
Trước đây, BLHS năm 1999 quy định khoản 2 Điều 46 như sau: “Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án”. Kế thừa tinh thần của BLHS năm 1999, BLHS 2015 quy định khoản 2 Điều 51 với nội dụng giữ nguyên tinh thần của BLHS năm 1999, cụ thể: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”.
So với quy định tại Bộ Luật hình sự cũ thì nhà làm luật đã có thêm một gợi ý cho Tòa khi quyết định các tình tiết giảm nhẹ khác với quy định tại Khoản 1 đó là đầu thú. Như tác giả đã có dịp đề cập đến trong phần bình luận ở các
phần trước, đầu thú có thể hiểu là người thực hiện hành vi phạm tội đã tự nhận hành vi phạm tội của mình sau khi hành vi đó đã bị phát hiện nhưng người phạm tội đó vẫn chưa bị bắt giữ. Đầu thú hoàn toàn không giống với tự thú và do đó nó chỉ có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ chứ không thể là tình tiết được miễn trách nhiệm hình sự. Và đây là một gợi ý không hề tồi để Tòa án căn cứ quyết định hình phạt và xem đó là một tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên tình tiết này bắt buộc phải được ghi rõ lý do trong bản án chứ không đương nhiên là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1.
Ngoài đầu thú, Tòa án cũng được quyền xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ (không bị giới hạn) nhưng với điều kiện phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong Bán án. Tuy nhiên những tình tiết khác ở đây là những tình tiết nào, có bắt buộc phải đảm bảo các tiêu chí nhất định hay không thì trong phạm vi Bộ Luật Hình sự không hề có quy định. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2000/NQ–HĐTP thì các tình tiết sau đây được coi là các tình tiết giảm nhẹ khác:
– Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:
– Bị cáo là thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em ruột là liệt sỹ;
– Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
– Người bị hại cũng có lỗi, – Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;
– Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;
– Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
– Phạm tội trong trường hợp và phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.
Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Các trường hợp được liệt kê ở trên là những tình tiết giảm nhẹ TNHS chung, nhưng tùy từng trường hợp có thể xác định chính xác tình tiết đó có thuộc vào mặt chủ quan của tội phạm để xem xét tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc mặt chủ quan hay không.
Như vậy có thể thấy đây là một quy định mở và trao quyền cho Tòa án rất lớn, chính vì vậy phần nào cũng sẽ dẫn đến những ý chí chủ quan khi xét xử các Tòa, các cấp khác nhau.