Trong hoạt động ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro thị trường là một yếu tố vô cùng quan trọng. Dưới đây là bài viết tham khảo về chủ đề: Quản trị rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại, mời bạn đọc theo dõi.
Mục lục bài viết
1. Rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại là gì?
Rủi ro thị trường là các yếu tố không thể kiểm soát hoặc khó kiểm soát gây ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường tài chính, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư và các tổ chức tài chính. Rủi ro thị trường có thể bao gồm những thay đổi đột ngột về giá cả, khối lượng giao dịch, lãi suất, tình trạng kinh tế, chính trị, thảm họa thiên nhiên hoặc các yếu tố khác có thể gây ra sự dao động mạnh của thị trường và gây thiệt hại cho các nhà đầu tư. Điều này làm cho rủi ro thị trường trở thành một trong những rủi ro chính trong lĩnh vực đầu tư tài chính.
Rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại là những rủi ro phát sinh từ tình hình kinh tế, tài chính của toàn bộ hệ thống kinh tế, thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng và các yếu tố chính trị, xã hội. Những rủi ro này có thể gây ảnh hưởng đến tình trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Theo quy định tại Thông tư 40/2018/TT-NHNN đã sửa đổi và bổ sung khoản 24 Điều 3 của Thông tư 13/2018/TT-NHNN, về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này đã có hiệu lực từ ngày 12/02/2019 và quy định rằng rủi ro thị trường là loại rủi ro phát sinh từ sự biến động bất lợi của lãi suất, tỷ giá, giá vàng, giá chứng khoán và giá hàng hóa trên thị trường.
2. Các loại rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại:
Các rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại có thể bao gồm:
– Rủi ro lãi suất: Đây là rủi ro phổ biến nhất trong hoạt động của ngân hàng. Nếu lãi suất tăng đột ngột, các khoản vay của khách hàng sẽ trở nên khó khăn và gây ra rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất giảm quá thấp, lợi nhuận của ngân hàng cũng sẽ giảm và khiến ngân hàng gặp khó khăn về tài chính.
– Rủi ro ngoại hối: Đây là rủi ro phát sinh khi tỷ giá ngoại tệ thay đổi không theo đúng kỳ vọng. Ngân hàng thương mại thường phải mua bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, và nếu tỷ giá thay đổi quá mạnh, ngân hàng có thể bị lỗ hoặc gặp khó khăn về tài chính.
– Rủi ro giá cổ phiếu: Đối với các ngân hàng thương mại có hoạt động mua bán chứng khoán, rủi ro giá cổ phiếu là một trong những rủi ro lớn. Nếu giá cổ phiếu giảm, ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc bán chứng khoán để đáp ứng nhu cầu tài chính hoặc chịu tổn thất lớn từ việc nắm giữ cổ phiếu đó.
– Rủi ro giá hàng hóa: Ngân hàng thương mại có thể bị ảnh hưởng bởi các biến động giá hàng hóa như dầu, vàng, đồng,.. Nếu giá hàng hóa giảm, ngân hàng có thể gặp khó khăn trong việc khách hàng thanh toán nợ và chi phí hoạt động tăng lên.
Để quản lý các rủi ro thị trường trong hoạt động kinh doanh, các ngân hàng thương mại thường áp dụng các biện pháp như đánh giá và quản lý rủi ro, đánh giá và quản lý tài sản, phân bổ rủi ro, bảo hiểm rủi ro và xây dựng các chiến lược quản lý rủi ro.
3. Quản trị rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại là gì?
Quản trị rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại là quá trình quản lý và giảm thiểu các rủi ro có liên quan đến biến động của các yếu tố thị trường như lãi suất, tỷ giá ngoại tệ, giá cổ phiếu và giá hàng hóa.
Cần phải quản trị rủi ro thị trường vì thị trường tài chính và kinh tế luôn thay đổi và biến động không ngừng, tạo ra những rủi ro tiềm ẩn cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp. Nếu không quản trị tốt rủi ro thị trường, các tổ chức tài chính và doanh nghiệp có thể gặp phải những tổn thất nặng nề như mất tiền, mất uy tín, mất khách hàng và thậm chí có thể phá sản.
Việc quản trị rủi ro thị trường giúp các tổ chức tài chính và doanh nghiệp nhận biết, đánh giá và quản trị những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của mình. Điều này giúp họ có thể phòng ngừa và đối phó với các rủi ro đó một cách hiệu quả, giảm thiểu tổn thất và tăng cường sức mạnh cạnh tranh.
Đặc biệt, trong hoạt động ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro thị trường là một yếu tố vô cùng quan trọng. Với vai trò trung gian tài chính, ngân hàng thương mại có khối lượng tiền gửi và cho vay lớn, do đó nếu không quản trị tốt rủi ro thị trường, ngân hàng thương mại có thể gặp phải các rủi ro liên quan đến tài sản và nợ xấu, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đồng thời làm mất lòng tin của khách hàng và gây tổn thất kinh tế cho toàn xã hội.
4. Quy định về quản trị rủi ro thị trường trong hoạt động ngân hàng thương mại:
4.1 Chiến lược quản lý rủi ro thị trường và hạn mức rủi ro thị trường:
Theo quy định tại Điều 38 của Thông tư 13/2018/TT-NHNN và sửa đổi tại Điều 1 của Thông tư 40/2018/TT-NHNN, các ngân hàng thương mại cần thiết lập chiến lược quản lý rủi ro thị trường và hạn mức rủi ro thị trường như sau:
– Chiến lược quản lý rủi ro thị trường bao gồm ít nhất các nội dung sau:
+ Đánh giá mức độ rủi ro thị trường của sổ kinh doanh và thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro thị trường.
+ Quản lý rủi ro thị trường trong điều kiện bình thường, biến động mạnh về giá chứng khoán, giá hàng hóa, tỷ giá, giá vàng, lãi suất theo quy định nội bộ của ngân hàng thương mại và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
+ Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro thị trường, bao gồm cả các công cụ phòng ngừa rủi ro thị trường và quy định thẩm quyền phê duyệt các biện pháp phòng ngừa rủi ro thị trường.
– Hạn mức rủi ro thị trường bao gồm ít nhất:
+ Hạn mức rủi ro lãi suất: Hạn mức rủi ro lãi suất cho danh mục sản phẩm giao dịch, hạn mức cho giao dịch viên, hạn mức cắt lỗ, hạn mức về tổng trạng thái rủi ro lãi suất trên sổ kinh doanh.
+ Hạn mức rủi ro ngoại hối: Hạn mức về tổng trạng thái ngoại tệ dương, tổng trạng thái ngoại tệ âm, trạng thái vàng; hạn mức cho giao dịch viên; hạn mức cắt lỗ.
+ Hạn mức rủi ro giá hàng hóa: Hạn mức đối với danh mục sản phẩm giao dịch, hạn mức cho giao dịch viên, hạn mức cắt lỗ.
4.2. Đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro thị trường:
Cách thực hiện đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro thị trường được quy định tại các Điều 39 Thông tư 13/2018/TT-NHNN và Điều 1 Thông tư 40/2018/TT-NHNN.
– Theo đó, các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải đảm bảo các điều kiện sau: có cá nhân, bộ phận độc lập thực hiện nhiệm vụ này; có cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu để đo lường, theo dõi và kiểm soát rủi ro thị trường; phân cấp cụ thể thẩm quyền phê duyệt và thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro thị trường.
– Nếu ngân hàng sử dụng mô hình giá, mô hình đó phải đảm bảo đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị giao dịch tự doanh, được ước tính trên cơ sở thông tin, dữ liệu thị trường được thu thập từ các nguồn tin cậy và được đánh giá độc lập về độ tin cậy và phù hợp theo quy định nội bộ của ngân hàng.
– Các phương pháp, mô hình đo lường, theo dõi rủi ro thị trường phải đáp ứng các yêu cầu đo lường, theo dõi trạng thái rủi ro thị trường theo rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro giá cổ phiếu và rủi ro giá hàng hóa và tham số, giả định phải được kiểm định và điều chỉnh trên cơ sở so sánh diễn biến thực tế và kết quả thu được từ các phương pháp, mô hình này.
– Cuối mỗi ngày giao dịch, ngân hàng phải đánh giá khả năng tuân thủ hạn mức rủi ro thị trường trên cơ sở trạng thái rủi ro thị trường thực tế và điều chỉnh hạn mức rủi ro thị trường nếu cần thiết và thông báo kịp thời cho các đơn vị liên quan để thực hiện giao dịch tự doanh, kiểm soát rủi ro thị trường.
4.3. Báo cáo nội bộ về rủi ro thị trường:
Báo cáo rủi ro thị trường nội bộ là điều cần thiết bên cạnh việc đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro. Điều này được quy định tại Điều 40 Thông tư 13/2018/TT-NHNN. Đặc biệt:
Thứ nhất, vào cuối ngày làm việc, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo rủi ro thị trường nội bộ đối với sổ giao dịch của mình, bao gồm tối thiểu các nội dung sau:
– Tổng trạng thái rủi ro thị trường trong ngày;
– Bất kỳ phát hiện nào từ hoạt động kiểm soát hoạt động tự doanh;
– Lãi (lỗ) thực tế và ước tính dựa trên giá trị thị trường của hoạt động tự doanh;
– Giới hạn giao dịch trong ngày và trạng thái sử dụng của chúng vào cuối ngày giao dịch.
Thứ hai, tối thiểu sáu tháng một lần, ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải báo cáo rủi ro thị trường nội bộ, bao gồm tối thiểu các nội dung sau:
– Tổng trạng thái rủi ro thị trường so với các hạn mức rủi ro thị trường tại thời điểm báo cáo;
– Kết quả rà soát, đánh giá các phương pháp đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro thị trường (nếu có);
– Lãi (lỗ) thực tế và ước tính dựa trên giá trị thị trường của hoạt động tự doanh;
– Các vi phạm về quản lý rủi ro thị trường và nguyên nhân (nếu có);
– Các trường hợp bất thường trong hoạt động tự doanh, thay đổi các giả định chính của phương pháp đo lường rủi ro thị trường;
– Đề xuất, kiến nghị về quản trị rủi ro thị trường với cơ quan báo cáo;
– Kết quả thực hiện các yêu cầu, kiến nghị về quản lý rủi ro thị trường, hoạt động tự doanh của kiểm toán nội bộ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức kiểm toán độc lập và các cơ quan chức năng khác.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày 18 tháng 05 năm 2018 kiểm soát nội bộ ngân hàng thương mại chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
– Thông tư số 40/2018/TT-NHNN ngày 28 tháng 12 năm 2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18 tháng 05 năm 2018 của thống đốc ngân hàng nhà nước quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của Ngân hàng thương mại, chi nhánh nhân hàng nước ngoài.