Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Vậy quyền thừa kế tài sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Quyền thừa kế tài sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất:
1.1. Quy định về quyền thừa kế tài sản:
Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp luật dân sự trong đó những chủ thể có những quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ này, người có tài sản, trước khi chết hoàn toàn có quyền định đoạt tài sản của mình cho những người khác. Những người có quyền nhận di sản có thể nhận hoặc không nhận di sản đó (trừ trường hợp từ chối nhận di sản nhằm để trốn tránh một nghĩa vụ nào đó). Đối tượng của thừa kế là các tài sản, quyền tài sản thuộc quyền của người đã chết để lại. Tuy nhiên, một số các quyền tài sản gắn liền với nhân thân người đã chết không thể chuyển cho những người thừa kế (ví dụ như tiền cấp dưỡng…) vì pháp luật quy định chỉ người đó mới có quyền được hưởng.
Tại Điều 609, 610 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về quyền thừa kế và quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân, căn cứ theo các quy định này thì có thể hiểu cá nhân hoàn toàn có quyền được hưởng di sản và bình đẳng về quyền được hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
1.2. Quyền thừa kế tài sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất:
Có hai hình thức thừa kế tài sản đó chính là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo pháp luật chỉ xảy ra trong những trường hợp sau:
– Người chết không có di chúc;
– Người chết có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp;
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản;
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc.
Vì vậy, khi bố mẹ mất nếu như có tài sản để lại (di sản) thì trước nhất di sản đó sẽ được chia theo di chúc, trong trường hợp bố mẹ mất đi có để lại di chúc (di chúc phải hợp pháp, người được chỉ định hưởng di sản trong di chúc phải còn sống). Còn nếu như bố mẹ mất đều không để lại di chúc thì di sản sẽ được chia theo pháp luật.
Trường hợp thứ nhất: di sản chia theo di chúc:
Trong trường hợp này, những người con phải tôn trọng và thực hiện theo ý chí của bố mẹ mình đã ghi rõ trong di chúc, kể cả trong di chúc của bố mẹ không chỉ định bản thân (những người con) được hưởng di sản, trừ trường hợp bản di chúc của bố, mẹ để lại thuộc vào những trường hợp chia thừa kế theo pháp luật đã nêu ở trên.
Tuy nhiên, không phải trường hợp nào những người con cũng đều không được hưởng di sản của bố mẹ nếu như bố mẹ có để lại di chúc và không chỉ định những người con được hưởng phần di sản của mình. Điều 644 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, theo quy định này thì một trong những người được hưởng di sản (con) của bố mẹ mặc dù bố mẹ không chỉ định người này được hưởng di sản trong di chúc đó chính là:
– Con chưa thành niên;
– Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Hai đối tượng này sẽ có quyền được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc (bố mẹ) cho hưởng di sản.
Trường hợp thứ hai: di sản chia theo pháp luật
Điều 651 Bộ Luật Dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật, những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm có:
+ Vợ của người chết;
+ Chồng của người chết;
+ Cha đẻ, mẹ đẻ của người chết;
+ Cha nuôi, mẹ nuôi của người chết;
+ Con đẻ, con nuôi của người chết.
– Hàng thừa kế thứ hai gồm có:
+ Ông nội, bà nội của người chết;
+ Ông ngoại, bà ngoại của người chết;
+ Anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
+ Cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
– Hàng thừa kế thứ ba gồm có:
+ Cụ nội, cụ ngoại của người chết;
+ Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết;
+ Cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột;
+ Chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Lưu ý rằng:
– Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau;
– Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn một ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản hoặc bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Như vậy, nếu di sản của bố mẹ được chia theo pháp luật thì những người con hoàn toàn có quyền được hưởng phần di sản bằng nhau bởi vì những người con (kể cả con nuôi) đều là một trong những đối tượng thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
2. Những người không có quyền thừa kế tài sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất:
Theo quy định của pháp luật về thừa kế, những đối tượng sau sẽ không được quyền thừa kế tài sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất:
– Con (kể cả con nuôi) bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản (bố mẹ), xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của bố mẹ;
– Con có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng bố, mẹ;
– Con bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng những người thừa kế khác nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Con có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản bố, mẹ trong việc lập di chúc;
– Con có hành vi giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc của bố mẹ nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của bố mẹ;
– Bố mẹ có để lại di chúc chỉ định con được hưởng di sản nhưng bố mẹ không hay biết về những hành vi đã kể trên của con, khi chứng minh được vấn đề đó thì con sẽ không được hưởng di sản của bố, mẹ kể cả bố, mẹ có để lại di chúc chỉ định người con đó được hưởng di sản;
– Con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động được quyền hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng có các hành vi đã kể trên thì cũng là đối tượng không được quyền thừa kế tài sản của bố, mẹ sau khi bố, mẹ mất.
3. Các con có quyền yêu cầu chia di sản của bố mẹ sau khi bố mẹ mất trong bao lâu:
Điều 623 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về thời hiệu thừa kế, theo quy định này thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời điểm mở thừa kế chính là thời điểm bố hoặc mẹ chết.
Như vậy, thời hiệu để các con khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi hết thời hạn này thì di sản của bố mẹ sẽ thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý những trường hợp thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện chia di sản hoặc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chia di sản.
– Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện chia di sản:
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản, pháp luật quy định những trường hợp không tính vào thời hiệu khởi kiện chia di sản, cụ thể như sau:
+ Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan làm cho các chủ thể có quyền khởi kiện không thể khởi kiện chia di sản trong phạm vi thời hiệu.
+ Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chia di sản là người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người đó bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
+ Người mà chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người mà bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chưa có người đại diện khác để thay thế trong trường hợp sau:
* Người đại diện chết nếu như là cá nhân, chấm dứt tồn tại nếu là pháp nhân;
* Người đại diện vì lý do chính đáng mà không thể tiếp tục đại diện được.
– Bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chia di sản:
Trong một số trường hợp, mặc dù đã hết thời hiệu khởi kiện chia di sản, nhưng mà pháp luật cho phép được bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện chia di sản, cụ thể trong các trường hợp sau:
+ Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện chia di sản;
+ Bên có nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện chia di sản;
+ Các bên đã tự hòa giải với nhau.
Thời hiệu khởi kiện chia di sản bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày xảy ra sự kiện nêu trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ Luật Dân sự 2015.