Di sản thừa kế được hiểu là phần tài sản mà người chết để lại cho người sống. Vậy di sản thừa kế có những đặc trưng gì và được quy định ra sao?
Mục lục bài viết
1. Thế nào là di sản thừa kế?
Theo quy định tại Điều 612 Bộ luật dân sự 2015, di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác.
Về cơ bản, có thể hiểu di sản thừa kế là phần tài sản mà người chết để lại cho người sống.
Tài sản ở đây có thể là những giá trị vật thể hoặc phi vật thể. Hay nói cách khác, có thể hiểu, di sản là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân mà họ để lại sau khi chết bao gồm vật, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền, quyền tài sản. Di sản mà người chết để lại bao gồm các loại tài sản cụ thể như sau: tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đó, các quyền tài sản bao hàm cả quyền đối với tác phẩm, quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp, quyền sử dụng đất đai được coi là một loại tài sản thuộc quyền sở hữu của người có quyền đó nên quyền sử dụng đất đai cũng là một loại di sản và được để lại thừa kế theo quy định về chuyển quyền sử dụng đất.
2. Phân loại di sản thừa kế. Ví dụ:
Di sản thừa kế bao gồm các hình thức tài sản sau đây:
– Các tài sản thuộc quyền sở hữu của người để thừa kế và thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt; những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn B mất đầu năm 2022. Cuối năm 2022, con cái của ông tiến hành khai nhận di sản thừa kế ông để lại. Qua thống kê, tài sản ông để lại gồm có: một nhà đất tại thành phố Hồ Chí Minh, một sổ tiết kiệm trị giá 5 trăm triệu đồng. Lúc này, những tài sản đó được xem là di sản thừa kế mà ông B để lại. Di sản thừa kế này sẽ được tiến hành phân chia cho các chủ thể thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông B.
– Một hình thức khác của di sản thừa kế là các quyền về tài sản mà người để thừa kế được hưởng theo quan hệ hợp đồng hoặc do được bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Ông Phạm Văn K, 50 tuổi. Tháng 7 năm 2022, ông A tham gia hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Trần Văn B. Ông K là người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hai bên đã tiến hành làm hợp đồng đặt cọc với nhau. Theo đó, ông K đã đặt cọc cho ông B là 300 triệu đồng. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành việc thanh toán tiền cọc, ông K mới phát hiện ra đất của ông B đang bị tranh chấp với chủ thể khác. Theo thỏa thuận trong hợp đồng đặt cọc, khi đất bị tranh chấp, ông B sẽ phải bồi thường gấp đôi tiền cọc cho ông K. Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 2022, ông K bị đột quỵ và mất. Lúc này, khoản tiền cọc và tiền bồi thường cọc mà ông K có quyền được hưởng sẽ được xem là di sản thừa kế.
– Các nghĩa vụ về tài sản của người để thừa kế phát sinh do quan hệ hợp đồng, do việc gây thiệt hại cũng được xem là một trong những hình thức của di sản thừa kế.
3. Các đặc trưng của di sản thừa kế:
Di sản thừa kế có các đặc trưng cơ bản như sau:
– Di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết.
Giống như khái niệm của nó, đặc trưng đầu tiên của di sản thừa kế, đó là nguồn tài sản do người chết để lại. Ở đây, ta có thể hiểu, những tài sản này thuộc sở hữu của người để lại di sản lúc còn sống. Những tài sản này có thể là tài sản thuộc sở hữu của chủ thể đó (tức người để lại di sản đã đứng tên sở hữu), hoặc là tài sản mà người để lại di sản có quyền được hưởng (liên quan đến các giao dịch, hình thức góp vốn,..).
Để làm rõ hơn về tài sản thuộc sở hữu của người chết, Điều 170 BLDS năm 2015 quy định về cách quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
+ Tài sản có được do lao động, sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Tức ở đây, tài sản mà công dân sở hữu là tài sản có được công sức lao động của người dân. Do đó, họ hoàn toàn có quyền sở hữu đối với tài sản đó.
+ Tài sản có được do được chuyển quyền sở hữu theo thỏa thuận; hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tức những nguồn tài sản này có được liên quan đến việc chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của pháp luật hiện hành.
+ Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản mà họ có quyền sở hữu; đối với tài sản mới có được do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến.
+ Tài sản có được do thừa kế; tài sản có được do chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật cô chủ, bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu; do chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình; liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định
– Một đặc trưng khác của di sản thừa kế là các tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết có thể mang giá trị vật chất, cũng có thể là giá trị tinh thần.
Cũng giống khái niệm di sản chung, di sản thừa kế cũng thường có hai hình thức tồn tại: Di sản vật chất và di sản tinh thần.
Di sản tinh thần được hiểu là những giá trị văn hóa, truyền thống mà người chết để lại cho các thành viên trong gia đình. Hay nói cách khác, di sản tinh thần này là những của cải, vật chất mang giá trị tinh thần, được người chết để lại cho thế hệ sau. Ví dụ: Ông Nguyễn Văn A (90 tuổi), là nghệ nhân làm đàn tì bà có tiếng. Đầu năm 2021, ông mất. Di sản ông để lại cho con cháu là danh tiếng của việc làm đàn tì bà. Lúc này, con cháu ông sẽ có bổn phận tiếp nhận di sản thừa kế này, và duy trì, phát huy nhằm gìn giữ và phát triển nó.
Di sản vật chất là những tài sản có giá trị về mặt kinh tế. Tại đó, những người thuộc diện được hưởng di sản thừa kế có thể sử dụng tài sản này vào mục đích sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng để phục vụ nhu cầu sinh sống và phát triển của bản thân.
– Di sản thừa kế có đặc trưng lưu truyền, dịch chuyển tài sản.
Về nguyên tắc chung, sự dịch chuyển tài sản từ cá nhân này qua cá nhân khác trong phân chia di sản thừa kế dựa trên sự kiện pháp lý là người có tài sản chết. Về cơ bản, sự chuyển dịch tài sản thường không diễn ra ngay tại thời điểm người để lại di sản thừa kế chết, mà nó thường được tiến hành tại thời điểm mở thừa kế. Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án tuyên bố là đã chết. Lúc này, việc xác định di sản thừa kế mà người chết để lại sẽ được diễn ra. Sau khi xác định được di sản thừa kế, tại thời điểm mở thừa kế, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ tiến hành chuyển giao, chuyển dịch tài sản từ người để lại di sản sang người được hưởng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật
– Sự chuyển giao di sản thừa kế được pháp luật bảo hộ và công nhận.
Pháp luật quy định về thời điểm mở thừa kế, quy trình, thủ tục khai nhận di sản thừa kế trong bộ luật dân sự 2015. Tức, mọi hoạt động liên quan đến đến việc kê khai, mở chuyển dịch, chuyển giao di sản thừa kế đều nằm dưới khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật sẽ bảo hộ và công nhận việc phân chia di sản thừa kế trong trường hợp nó hợp pháp. Đồng thời, cơ quan chức năng có thẩm quyền sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết các vấn đề liên quan đến khai nhận, hưởng di sản thừa kế. Nếu xảy ra tranh chấp, hay có dấu hiệu sai phạm nào, cơ quan Nhà nước sẽ đưa ra phương hướng giải quyết phù hợp, nhằm hợp thức hóa việc khai nhận di sản thừa kế, cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.
Hay nói cách khác, bằng việc ban hành các văn bản pháp luật; Nhà nước quy định quyền để lại thừa kế và nhận thừa kế của các chủ thể.
– Đặc trưng của di sản thừa kế là nó bao gồm nhiều loại tài sản được hình thành từ nhiều thành phần.
Di sản thừa kế là tài sản thuộc sở hữu của người chết để lại cho người sống. Di sản thừa kế bao gồm tài sản riêng của cá nhân của người chết để lại, và tài sản chung của người đó với người khác. Lúc này, việc phân chia di sản thừa kế phải dựa trên sự kiểm tra, xác nhận về tính sở hữu riêng biệt của người chết với tài sản của mình. Đặc biệt, trong các thành phần tài sản chung, tài sản riêng của người để lại di sản thừa kế trên, có thể thấy, hình thức của di sản vô cùng đa dạng.
Di sản thừa kế có một số hình thức đặc biệt như quyền sử dụng đất; quyền về tài sản phát sinh do quan hệ hợp đồng; quyền của người chết được bồi thường thiệt hại về tài sản trong các giao dịch dân sự khác.
Văn bản pháp luật sử dụng trong bài viết: Bộ luật dân sự 2015.