Ngày nay các quốc gia ngày càng chú trọng đến hoạt động tương trợ tư pháp bằng việc ký kết các điều ước quốc tế song phương chuyên về hợp tác giữa các cơ quan tư pháp các nước kết ước trong lĩnh vực pháp luật hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, … Vậy hiệp định tương trợ tư pháp là gì? Có các hiệp định tương trợ tư pháp gì?
Mục lục bài viết
1. Hiệp định tương trợ tư pháp là gì?
Tương trợ tư pháp là việc cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà chủ yếu là
Hiệp định tương trợ tư pháp là Điều ước quốc tế chuyên môn được ký kết nhằm thiết lập các nguyên tắc, quy chuẩn, quy phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền giữa các nước hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình giải quyết các vấn đề tư pháp. Thông thường các hiệp định tương trợ tư pháp thường là các điều ước quốc tế song phương trong lĩnh vực dân sự, hình sự, …
Hiệp định tương trợ tư pháp được thực hiện theo quy định mà các bên thỏa thuận; trường hợp vấn đề trong hiệp định tương trợ không quy định thì áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật nước sở tại có liên quan.
Các hiệp định tương trợ tư pháp được kí có nội dung cơ bản tương tự nhau, thừa nhận chế độ bảo hộ pháp lí cho công dân và tổ chức các nước liên quan thiết lập cơ quan đầu mối trong tương trợ tư pháp là Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát tối cao (về các vấn đề hình sự), quy định về cách thức lập hồ sơ uỷ thác, thực hiện các uỷ thác và các hoạt động tố tụng riêng biệt khác, xác định thẩm quyền tố tụng của các cơ quan tư pháp các nước liên quan và pháp luật cần áp dụng để giải quyết các vấn đề tư pháp cụ thể.
2. Nguyên tắc tương trợ tư pháp:
– Nguyên tắc 1: tương trợ tư pháp được thực hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không có các hoạt động can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và hợp tác các bên cùng có lợi, phù hợp với quy định của Hiến pháp, pháp luật của Việt Nam và Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
– Nguyên tắc 2: Trong trường hợp Việt Nam và nước ngoài mà chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp về lĩnh vực pháp luật nào đó thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện dựa trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không được trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với tập quán và pháp luật quốc tế. Việc xem xét, quyết định áp dụng nguyên tắc có đi, có lại trong tương trợ tư pháp với nước ngoài dựa trên cơ sở là: SỰ cần thiết của Việt Nam trong từng trường hợp cụ thể hoặc trong quan hệ chung với nước có liên quan; Không trái với quy định của pháp luật Việt Nam, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và phù hợp với pháp luật, tập quán quốc tế; phù hợp với yêu cầu đối ngoài, tác động kinh tế, chính trị; lợi ích của Nhà nước, cá nhân, pháp nhân Việt Nam có liên quan.
Theo nguyên tắc trên, hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện trước hết căn cứ vào điều ước quốc tế giữa Việt Nam và quốc gia có yêu cầu về Tương trợ tư pháp, đó là sự thỏa thuận giữa các quốc gia ký kết, thành viên về cam kết hỗ trợ pháp lý trong hoạt động tương trợ tư pháp. Trong trường hợp chưa có điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp hoặc chưa có thỏa thuận hoặc chưa có tiền lệ về việc áp dụng nguyên tắc có đi có lại đối với các nội dung liên quan thì
3. Các hiệp định tương trợ tư pháp:
Căn cứ theo quy định của
3.1. Tương trợ tư pháp về dân sự:
Theo Điều 10
– Tống đạt hồ sơ, giấy tờ, tài liệu liên quan đến hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự;
– Triệu tập những người làm chứng, người giám định;
– Thu thập các chứng cứ, cung cấp tài liệu, chứng cứ;
– Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự.
Các hoạt động hỗ trợ, yêu cầu tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự chỉ được thực hiện trong phạm vi các hoạt động tống đạt, triệu tập, thu thập, cung cấp chứng chứ theo quy định.
3.2. Tương trợ tư pháp về hình sự:
* Theo Điều 17 Luật tương trợ tư pháp xác định phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và nước ngoài bao gồm những công việc như sau:
– Thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ;
– Triệu tập những người làm chứng, người giám định;
– Tống đạt giấy tờ, tài liệu, hồ sơ liên quan đến tương trợ tư pháp về hình sự;
– Truy cứu trách nhiệm hình sự;
– Trao đổi thông tin về hình sự;
– Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về hình sự.
Như vậy, phạm vi tương trợ tư pháp trong lĩnh vực hình sự cũng bao gồm các hoạt động tống đạt, triệu tập, thu thập, cung cấp chứng cứ và mở rộng ra ở hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội theo quy định pháp luật.
* Tuy nhiên trong một số trường hợp việc thực hiện ủy thác tư pháp về hình sự của nước ngoài bị từ chối theo Điều 21 Luật tương trợ tư pháp như sau:
– Hoạt động ủy thác không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp luật Việt Nam;
– Thực hiện ủy thác hình sự gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia;
– Liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người đó đã bị kết án, được đại xá, đặc xá tại Việt Nam hoặc được tuyên không có tội ;
– Liên quan đến hành vi phạm tội những thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
– Liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng hành vi đó không cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam.
* Trường hợp việc thực hiện ủy thác tư pháp cản trở quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tại Việt Nam thì uỷ thác tư pháp về hình sự có thể bị hoãn thực hiện tại Việt Nam.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
3.3. Dẫn độ:
Dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự mà người đó đang có mặt trên lãnh thổ nước mình để nước được chuyển giao thuận tiện thực hiện truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người đó.
* Trường hợp bị dẫn độ theo Điều 33 Luật tương trợ tư pháp quy định:
– Người có thể bị dẫn độ là người có hành vi phạm tội mà Bộ luật hình sự Việt Nam và pháp luật hình sự của nước yêu cầu quy định hình phạt tù có thời hạn từ một năm trở lên, tù chung thân hoặc tử hình hoặc người có hành vi phạm tội đã bị Tòa án của nước yêu cầu xử phạt tù mà thời hạn chấp hành hình phạt tù còn lại ít nhất sáu tháng;
– Hành vi phạm tội của người có hành vi phạm tội này không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội danh, cũng không nhất thiết phải giống nhau các yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu.
– Việc dẫn độ người phạm tội có thể được thực hiện theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam nếu đó là hành vi phạm tội.
* Trường hợp bị từ chối dẫn độ theo quy định tại Điều 35 Luật tương trợ tư pháp, cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền Việt Nam có thể từ chối đối với:
– Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân Việt Nam;
– Người bị yêu cầu dẫn độ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do hợp pháp khác theo quy định của pháp luật Việt Nam;
– Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự đã bị kết tội bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật tại Tòa án của Việt Nam về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ hoặc vụ án đã bị đình chỉ;
– Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở Việt Nam do có sự phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, giới tính, dân tộc, quốc tịch, thành phần xã hội hoặc quan điểm chính trị nên có khả năng bị truy bức ở nước yêu cầu dẫn độ;
– Trường hợp yêu cầu dẫn độ có liên quan đến nhiều tội danh và mỗi tội danh đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nước yêu cầu dẫn độ nhưng không đáp ứng điều kiện về trường hợp phải dẫn độ theo quy định.
3.4. Chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù:
* Trường hợp chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù theo quy định tại Điều 50 Luật tương trợ tư pháp:
Người đang thực hiện chấp hành hình phạt tù có thể được chuyển giao đến nước mà người đó mang quốc tịch hoặc đến nước khác để tiếp tục chấp hành hình phạt tù mà nước chuyển giao đã tuyên đối với người đó nếu nước đó đồng ý tiếp nhận chuyển giao. Việc chuyển giao được thực hiện căn cứ vào điều ước quốc tế; trường hợp chưa có điều ước quốc tế liên quan đến việc chuyển giao thì việc chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù được thực hiện theo thoả thuận trực tiếp giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và nước liên quan trên cơ sở phù hợp với quy định pháp luật và tập quán quốc tế.
Để thi hành hình phạt tù với người đang chấp hành hình phạt tù ở nước ngoài có thể được tiếp nhận về Việt Nam khi có đủ các điều kiện sau đây:
– Là công dân Việt Nam;
– Có nơi thường trú cuối cùng ở Việt Nam;
– Hành vi phạm tội mà người đó bị kết án ở nước ngoài cũng là hành vi cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật Việt Nam;
– Thời hạn chưa chấp hành hình phạt tù phải còn ít nhất là một năm vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là sáu tháng;-
– Không còn thủ tục tố tụng nào đối với người đó tại nước chuyển giao và bản án đối với người được chuyển giao đã có hiệu lực pháp luật;
– Có sự đồng ý của nước được chuyển giao;
– Có sự đồng ý của người được chuyển giao.
* Chuyển giao cho nước ngoài để thi hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù tại Việt Nam khi có các điều kiện sau đây:
– Là công dân của nước tiếp nhận hoặc có người thân thích tại nước tiếp nhận chuyển giao hoặc là người được phép cư trú không thời hạn;
– Có đủ các điều kiện: hành vi phạm tội cũng là hành vi cấu thành tội phạm theo quy định của pháp luật nước nhận chuyển giao; Thời hạn chưa chấp hành hình phạt tù phải còn ít nhất là một năm vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này còn ít nhất là sáu tháng; Không còn thủ tục tố tụng nào đối với người đó tại nước chuyển giao; Có sự đồng ý của nước được chuyển giao và người được chuyển giao và đã thực hiện xong phần trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản và các trách nhiệm pháp lý khác trong bản án;
– Có sự đồng ý của nước tiếp nhận chuyển giao.
* Trường hợp từ chối chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù khi:
– Có căn cứ cho rằng người được chuyển giao có thể bị trả thù, tra tấn hoặc truy bức tại nước tiếp nhận chuyển giao;
– Việc chuyển giao có thể phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia của Việt Nam nếu đồng ý chuyển giao.
4. Một số hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam đã ký kết với các nước:
Theo thống kê đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 22 Điều ước quốc tế đa phương và 23 Điều ước quốc tế song phương có quy định về tương trợ tư pháp về hình sự. Các hiệp định Việt Nam ký kết là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để Việt Nam và các quốc gia trên thế giới nói chung cũng như trong khu vực ASEAN nói riêng thực hiện việc tương trợ tư pháp về hình sự nhằm phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm, đặc biệt là các loại tội phạm xuyên quốc giác, tội phạm có tổ chức; tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, hôn nhân gia đình nhằm phát triển quan hệ, tăng cường và hoàn thiện sự hợp tác giữa Việt Nam với các nước trong lĩnh vực quan hệ pháp lí và bảo hộ các quyền, lợi ích chính đáng của công dân và pháp nhân Việt Nam trong quan hệ với công dân và pháp nhân các nước kí kết. Một số hiệp định tương trợ tư pháp của Việt Nam với các nước như:
HIệp định chuyển giao người bị kết án phạt tù giữa Việt Nam với: Anh (ký ngày 12/09/2008); Hàn Quốc (ký ngày 29/05/2009); Ô-xtơ-rây-li-a (ký ngày 13/10/2008); Thái Lan (Ký ngày 03/03/2010); Hung-ga-ri (ký ngày 16/09/2013).
– Hiệp định dẫn độ giữa Việt Nam với: Hàn Quốc (ký ngày 15/09/2003); In-đô-nê-xi-a (ký ngày 27/06/2013); Hung-ga-ri (ký ngày 16/09/2013).
– Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự giữa Việt Nam và: Ấn độ (ký ngày 8/10/2007); An-giê-ri (ký ngày 14/04/2010); Anh (ký ngày 13/01/2009); Hàn Quốc (ký ngày 15/09/2003); Tây Ban Nha (ký ngày 18/09/2015); Hung-ga-ri (Ký ngày 16/03/2016);
– Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và hình sự giữa Việt Nam và: Lào (ký ngày 06/07/1998); Nga (ký ngày 25/08/1998); Tiệp Khắc (ký ngày 12/10/1982); Triều Tiên (ký ngày 04/05/2002); Trung Quốc (ký ngày 19/10/1998); U-crai-na (ký ngày 06/04/2000); ….
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: