Làm chết người do phòng vệ chính đáng thì có phạm tội không? Phòng vệ chính đáng theo đúng quy định của pháp luật? Vượt quá mức phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào? Vượt quá mức phòng vệ chính đáng gây chết người có phải chịu hình phạt về hình sự?
Hiện nay, nhiều trường hợp để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình khi bị xâm phạm.
Cơ sở pháp lý:
–
Luật sư
Mục lục bài viết
1. Làm chết người do phòng vệ chính đáng thì có phạm tội không?
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 điều 22
Cần hiểu rằng việc phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Như vậy, đối với trường hợp người có hành vi vi phạm pháp luật đang xâm phạm đến tính mạng, tài sản, sức khỏe của quý bạn đọc hoặc tính mạng, tài sản, sức khỏe của người khác hoặc của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức khác, thì trong các trường hợp nêu trên quý bạn đọc hoàn toàn được chống trả một cách cần thiết, và việc chống trả này phải không được quá mức cần thiết để người có hành vi vi phạm phải dừng hành vi xâm phạm.
Phòng vệ chính đáng với mục đích là nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp và có thể ngăn chặn hành vi tấn công bằng cách gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công. Khi đánh giá hành vi chống trả có cần thiết không thì chúng ta cần phải xem xét toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án, đặc biệt về:
i) Tâm lý;
ii) Thái độ của người phòng vệ khi xảy ra sự việc họ không có điều kiện để bình tĩnh lựa chọn chính xác phương pháp;
iii) Phương tiện thích hợp để chống trả đặc biệt trong trường hợp họ bị tấn công bất ngờ;
Do vậy, chúng ta chỉ coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi sự chống trả rõ ràng là vượt quá mức cần thiết.
Ví dụ, điển hình như việc quý bạn đọc đang trên đường và nhìn thấy người có hành vi giật túi xách của người khác thì quý bạn đọc có thể sử dụng hành vi đánh vào tay của người này nhằm mục đích dừng hành vi xâm phạm. Đối với trường hợp, quý bạn đọc sử dụng hung khí, công cụ như dao, chai thủy tinh, ghế,… để đánh vào cơ thể, vào đầu người có hành vi vi phạm và làm chết người thì lúc đó đã vượt quá mức phòng vệ cần thiết, không còn được xem là phòng vệ chính đáng.
Như vậy, trường hợp làm chết người do phòng vệ chính đáng (không vượt quá mức cần thiết thì không phạm tội.
2. Phòng vệ chính đáng theo đúng quy định của pháp luật:
Hiện nay, căn cứ theo quy định
Một là, từ phía nạn nhân:
Nạn nhân ở đây được hiểu là người đang có hành vi trái pháp luật, hành vi vi phạm này nhằm mục đích xâm phạm đến các lợi ích của tổ chức, cá nhân, Nhà nước, người phòng vệ hoặc của người khác.
Hành vi trái pháp luật được hiểu là các hành vi phạm tội theo quy định Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021) cùng với các hành vi vi phạm khác trái với quy định của pháp luật trong luật dân sự; luật hành chính, luật kinh tế,
Hai là, từ phía người có hành vi phòng vệ:
Cá nhân có thể vì lợi ích chính đáng của mình, người khác, lợi ích của Nhà nước…được quyền hành động khi có nguồn nguy hiểm do con người đang, đã gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp của mình, người khác, lợi ích của Nhà nước.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng, khi hành vi tấn công trái pháp luật gây thiệt hại đến các lợi ích đang hiện hữu xảy ra và chưa có dấu hiệu dừng lại thì quyền phòng vệ chính đáng mới phát sinh. Người phòng vệ chỉ được gây thiệt hại cho chính người có hành vi xâm phạm thì mới được xem là phòng vệ chính đáng.
Ba là, về hành vi chống trả:
Hành vi chống trả phải là hành vi chống trả cần thiết. Cần thiết ở đây được hiểu là không thể bỏ qua hoặc không thể không chống trả trước một hành vi xâm phạm đến các lợi ích của mình, của người khác, Nhà nước,của xã hội,…
Cần lưu ý rằng đối với trường hợp thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng.
Bốn là, giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công phải có sự tương xứng.
Sự tương xứng ở đây phải là sự tương xứng về mức độ và tương xứng về tính chất, được xác định dựa trên các yếu tố chủ quan và khách quan.
Sự tương xứng ở đây được hiểu là hành vi tấn công gây thiệt hại đến mức nào thì người phòng vệ cũng được gây thiệt hại đến mức độ đó hoặc người tấn công sử dụng công cụ phương tiện gì thì người phòng vệ cũng sử dụng công cụ phương tiện đó.
3. Vượt quá mức phòng vệ chính đáng được hiểu như thế nào?
Căn cứ khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021) quy định về vượt quá phòng vệ chính đáng như sau: Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được hiểu là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, hành vi chống trả này không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Cần lưu ý rằng người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự.
4. Vượt quá mức phòng vệ chính đáng gây chết người có phải chịu hình phạt về hình sự?
Trường hợp hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại thì theo quy định pháp luật tùy vào tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân mà Cơ quan điều tra sẽ có thể tiến hành việc khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án.
Trường hợp, tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân có dấu hiệu của tội phạm thì Cơ quan điều tra sẽ có thể tiến hành việc khởi tố vụ án để xử lý. Do đó, người có hành vi vượt quá hành vi chính đáng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm sau:
Thứ nhất, Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021):
Căn cứ theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021) quy định như sau:
– Phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
– Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm đối với trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên.
Thứ hai, Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2021):
– Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm đối với Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
– Phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với trường hợp phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% đối với 02 người trở lên;
+ Tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên khi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
– Phạt tù từ 01 năm đến 03 năm đối với trường hợp phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên.