Việc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phải dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên tức là có sự tồn tại của hợp đồng. Theo luật Sở hữu trí tuệ hiện hành việc chuyển nhượng quyền Sở hữu công nghiệp đối với sáng chế phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.
Chuyển giao quyền Sở hữu công nghiệp có hai loại là chuyển giao quyền sở hữu (chuyển nhượng sở hữu bán) hai là chuyển giao quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp . Mà sáng chế là một đối tượng sở hữu công nghiệp nên mang đầy đủ quyền năng của quyền Sở hữu công nghiệp . Trong phạm vi luận văn này đề cập tới vấn đề chuyển giao quyền sử dụng. Theo Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ hợp động phải có các nội dung sau đây:
– Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền;
– Căn cứ chuyển giao quyền sử dụng;
– Dạng hợp đồng;
– Phạm vi chuyển giao, gồm giới hạn quyền sử dụng, giới hạn lãnh thổ;
– Thời hạn hợp đồng;
– Giá chuyển giao quyền sử dụng;
– Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền.
Mục lục bài viết
- 1 1. Về Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền:
- 2 2. Căn cứ chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp:
- 3 3. Dạng hợp đồng:
- 4 4. Về phạm vi lãnh thổ:
- 5 5. Điều khoản về thời hạn chuyển quyền sử dụng:
- 6 6. Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền:
- 7 7. Về giá chuyển quyền sử dụng và phương thức thanh toán:
- 8 8. Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế:
1. Về Tên và địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền:
Theo đó, nội dung của hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp phải được ghi rõ tên, địa chỉ đầy đủ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền; tên, địa chỉ của tổ chức đại diện mỗi bên (nếu có).
2. Căn cứ chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp:
Hợp đồng sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp chỉ phát sinh hiệu lực pháp lý nếu bên chuyển quyền có tư cách chuyển quyền sử dụng. Nếu bên chuyển quyền là chủ sở hữu quyền Sở hữu công nghiệp , hợp đồng phải xác định rõ văn bằng bảo hộ thuộc quyền sở hữu của bên chuyển quyền thông qua tên văn bằng bảo hộ, số văn bằng, ngày cấp văn bằng, thời hạn hiệu lực của văn bằng (nếu quyền Sở hữu công nghiệp đối với các đối tượng Sở hữu công nghiệp được phát sinh trên cơ sở cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan có thẩm quyền).
Trong trường hợp đối tượng Sở hữu công nghiệp được bảo hộ tự động thì bên chuyển quyền chỉ cần nêu ra mình là chủ sở hữu đối tượng Sở hữu công nghiệp và khi có tranh chấp mới phải chứng minh quyền sở hữu đó. Nếu bên chuyển quyền là người được chuyển giao quyền sở hữu hợp pháp các đối tượng Sở hữu công nghiệp đó thông qua hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp thì cũng phải khẳng định tư cách của bên chuyển quyền bằng các thông tin: tên, ngày ký, số đăng ký (nếu có) và thời hạn hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền sử dụng cấp trên mà qua đó, quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp được cấp cho bên chuyển quyền.
3. Dạng hợp đồng:
Trong các nội dung của hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp phải có quy định về dạng hợp đồng được sử dụng. Đó là hợp đồng li – xăng độc quyền hay không độc quyền, hợp đồng thứ cấp hay là hợp đồng chuyển giao trực tiếp giữa chủ sở hữu quyền Sở hữu công nghiệp với bên được nhận chuyển giao quyền sử dụng. Các dạng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp đã được trình bày ở chương I của luận văn, phần hình thức hợp đồng chuyển quyền sử dụng đối tượng Sở hữu công nghiệp .
4. Về phạm vi lãnh thổ:
Pháp luật Việt Nam thừa nhận quyền sở hữu trí tuệ trong phạm vi lãnh thổ nước Việt Nam. Sự thừa nhận này không có giá trị ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này được hiểu như sau: Nếu tại Việt Nam một chủ thể là chủ sở hữu một đối tượng sở hữu trí tuệ nhất định thì không có nghĩa là ở nước khác, đối tượng đó cũng thuộc quyền sở hữu của người đó mà có thể thuộc về người khác hoặc không thuộc của ai cả.
Do đó, để được hưởng quyền sở hữu trí tuệ ở nước khác, chủ sở hữu phải đáp ứng điều kiện nhất định hoặc làm những thủ tục đăng ký, tiến hành các thủ tục pháp lý khác để được hưởng quyền; Cũng như vậy, không thể lấy các cơ sở phát sinh quyền sở hữu trí tuệ ở một nước khác để nói rằng hiển nhiên mình có quyền sở hữu trí tuệ đó ở Việt Nam; nói cách khác, các văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp, giống cây trồng hoặc các căn cứ phát sinh các quyền đối với các đối tượng sở hữu trí tuệ ở ở nước khác không có giá trị bảo hộ ở Việt Nam; Một điểm cần lưu ý về tính lãnh thổ của quyền sở hữu trí tuệ (trừ tên thương mại) là: mỗi quyền sở hữu trí tuệ được xác lập tại một nước thì đều có giá trị pháp luật ở trên toàn lãnh thổ nước đó.
Về phạm vi lãnh thổ đối với sáng chế cũng như trên bên nhận được phép sử dụng sáng chế, có thể là một phần hay toàn bộ lãnh thổ Việt Nam (hoặc khi bên nhận chuyển giao có được quyền sử dụng từ hợp đồng độc quyền, mà sau đó bên nhận chuyển giao lại chuyển giao quyền sử dụng đó cho một chủ thể khác theo hợp đồng thứ cấp thì phạm vi lãnh thổ được quy định tại hợp đồng thứ cấp này phải tuân thủ theo phạm vi lãnh thổ quy định tại hợp đồng chuyển giao độc quyền nói trên. Bởi vì, căn cứ để chuyển giao quyền sử dụng trong trường hợp này là hợp đồng sử dụng độc quyền đã được giao kết).
5. Điều khoản về thời hạn chuyển quyền sử dụng:
Với đa số các đối tượng sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu đối với chúng chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thời hạn mà quyền sở hữu trí tuệ còn hiệu lực, chủ sở hữu được hưởng các nội dung quyền như đã trình bày ở phần trên. Sau thời hạn đó, các quyền đó tự động mất đi, đối tượng sở hữu trí tuệ tương ứng trở thành vô chủ hoặc nói cách khác là thuộc về xã hội, bất kỳ ai cũng có thể sử dụng mà không bị cấm đoán hay ràng buộc (trừ việc phải tôn trọng quyền nhân thân đối với tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả vì quyền này được bảo hộ thời hạn).
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ, thời hạn bảo hộ áp dụng quyền đối với sáng chế được cấp bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp Bằng và kéo dài đến hết 20 năm kể từ ngày nộp đơn; Quyền đối với sáng chế được cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp Bằng và kéo dài đến hết 10 năm kể từ ngày nộp đơn.
Việc các bên thỏa thuận thời hạn li – xăng là để bảo đảm quyền của bên chuyển giao với việc tối đa hóa lợi ích trong thời gian đối tượng còn giá trị. Các bên phải xác định khoảng thời gian mà bên nhận được phép sử dụng (thuộc thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ, hoặc nếu đây là hợp đồng chuyển giao thứ cấp thì thời hạn này nằm trong thời hạn hợp đồng chuyển giao độc quyền trên thứ cấp).
Giới hạn bởi quyền của người sử dụng trước (đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp). Đối với sáng chế và kiểu dáng công nghiệp, chủ sở hữu không được phép ngăn cấm người sử dụng trước các đối tượng đó nếu người sử dụng trước không mở rộng phạm vi, khối lượng sử dụng so với tình trạng sử dụng trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên (nếu có) của đơn đăng ký sáng chế/kiểu dáng công nghiệp tương ứng. Trong trường hợp người sử dụng trước có mở rộng phạm vi hoặc khối lượng sử dụng thì chủ sở hữu sáng chế/kiểu dáng công nghiệp có quyền yêu cầu xử lý nhưng chỉ áp dụng đối với phần mở rộng nói trên.
6. Quyền và nghĩa vụ của bên chuyển quyền và bên được chuyển quyền:
– Quyền của bên chuyển quyền:
Thứ nhất, nhận phí chuyển giao theo mức và cách thức do các bên thỏa thuận
Thứ hai, có quyền hạn chế bên được chuyển quyền không chuyển quyền sử dụng sáng chế cho bên thứ ba.
Thứ ba, bên chuyển giao quyền sử dụng sáng chế có quyền kiểm tra sáng chế để đảm bảo hàng hóa được sản xuất sản phẩm/ quy trình,…có chất lượng.
– Nghĩa vụ của bên chuyển quyền:
Thứ nhất, chỉ được chuyển quyền sử dụng sáng chế trong phạm vi được pháp luật bảo hộ và trong thời hạn bảo hộ.
Thứ hai, đảm bảo việc chuyển quyền không gây tranh chấp với bên thứ ba; nếu có xảy ra tranh chấp với bên thứ ba thì phải có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp vì lợi ích của bên nhận chuyển giao quyền.
Thứ ba, bên chuyển giao không được đưa ra những điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên được chuyển giao, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền.
Thứ tư, đăng ký hợp đồng nếu bên nhận chuyển giao không có nghĩa vụ này.
Thứ năm, nộp thuế theo quy định Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chuyển quyền: + Quyền của bên nhận chuyển quyền: Thứ nhất, sử dụng sáng chế theo hợp đồng trong phạm vi và thời gian bảo hộ
Thứ sáu, trong trường hợp được sử dụng độc quyền, bên nhận chuyển giao có quyền chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho bên thứ ba (hợp đồng li-xăng thứ cấp) nếu được chủ sở hữu sáng chế cho phép.
– Nghĩa vụ của bên nhận chuyển quyền:
Thứ nhất, đăng ký hợp đồng nếu bên chuyển giao quyền không có nghĩa vụ này.
Thứ hai, trả phí li – xăng cho bên chuyển giao quyền theo hợp đồng
Ngoài ra theo khoản 2 Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ : Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên được chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền sau đây:
a) Cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu; buộc bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó;
b) Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp sang các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó;
c) Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu, linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của bên thứ ba do bên chuyển quyền chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hoá, dịch vụ do bên được chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp;
d) Cấm bên được chuyển quyền khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền.
Theo Khoản 3, Điều 144 Luật Sở hữu trí tuệ Các điều khoản trong hợp đồng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 144 luật Sở hữu trí tuệ nếu có điều khoản hạn chế bất hợp lý quyền của bên được chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển quyền mặc nhiên bị vô hiệu.
Quy định này phù hợp với thực tiễn với quy định bảo hộ sáng chế khi bên chuyển quyền ko có quyền thì không thể hạn chế quyền đó của bên nhận chuyển giao quyền sử dụng. Thực hiện hợp đồng li-xăng sáng chế này tạo điều kiện khai thác tối đa lợi ích của sáng chế mang lại. Chính vì vậy, Việt Nam khuyến khích việc chuyển giao quyền sử dụng. Khi chuyển giao thì cũng cần đăng ký về việc chuyển giao quyền sử dụng.
7. Về giá chuyển quyền sử dụng và phương thức thanh toán:
Phải quy định khoản tiền mà bên nhận phải thanh toán cho bên giao để được sử dụng sáng chế theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng. Giá do các bên thỏa thuận dựa trên cơ sở tính hiệu quả kinh tế và phải tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan. Như khi tiến hành định giá sáng chế do chưa có căn cứ cụ thể để chuyển giao nên việc định giá này do ý chí các bên dự kiến hiệu quả mà sáng chế mang lại.
Trong hoạt động chuyển quyền sử dụng sáng chế thì việc xác định giá trị của sáng chế là vô cùng quan trọng vì liên quan tới việc đảm bảo quyền lợi của các bên. Vì những lý do đó, việc xác định đúng giá trị của tài sản Sở hữu trí tuệ là việc làm cần thiết của các công ty trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư, tiếp cận thị trường vốn và đưa ra các biện pháp hợp lý để bảo vệ quyền Sở hữu trí tuệ của mình.
Tuy nhiên việc xác định giá trị quyền sử dụng sáng chế hiện nay còn nhiều khó khăn bởi chưa có văn bản quy định cụ thể về giá trị của sáng chế. Hiện nay một số văn bản đề cập về vấn đề định giá mang tính nguyên tắc: BLDS chưa có quy định về việc định giá quyền Sở hữu trí tuệ ; Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Sở hữu trí tuệ cũng chưa có quy định nào về việc định giá quyền Sở hữu trí tuệ .
Quy định về định giá quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập ở các văn bản như: Luật Doanh nghiệp 2005 Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do doanh nghiệp và người góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá,
Tiếp theo đó, việc xác định giá trị tài sản là quyền Sở hữu công nghiệp được quy định trong pháp lệnh giá số 40/2002/PL/UBTVQH10 ngày 25 tháng 4 năm 2002. Hơn nữa, quyết định 206/2003/QĐ của Bộ Tài Chính đã quy định việc sáng chế và các TSTT khác tham gia góp vốn được xác định giá trị, quản lý, sử dụng, trích khấu hao theo tài sản cố định vô hình. Như vậy, không có quy định cụ thể nào về việc định giá cho việc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế mà việc định giá chủ yếu để tham gia góp vốn bằng tài sản trí tuệ là Văn bản bảo hộ sáng chế.
Pháp luật Việt Nam về vấn đề định giá tài sản sở hữu trí tuệ luôn khuyến khích công dân nghiên cứu và phát triển khoa học kỹ thuật, phát minh, sáng chế và khuyến khích các cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam. Ví dụ các giao dịch liên quan đến chuyển nhượng hoặc li-xăng quyền sử dụng tài sản Sở hữu trí tuệ xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng chưa thể tạo ra được một thị trường công nghệ để những bên có nhu cầu về chuyển giao công nghệ tìm được nhau cũng như có cơ sở để các bên có thể so sánh đối tượng được chuyển giao với các đối tượng công nghệ khác, nhằm tìm ra được một mức giá chuyển nhượng hoặc li-xăng hợp lý.
8. Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế:
Căn cứ để bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế Việc sử dụng sáng chế nhằm mục đích công cộng, phi thương mại; phục vụ quốc phòng, an ninh; phòng bệnh, chữa bệnh; dinh dưỡng cho nhân dân; hoặc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội. Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế không thực hiện nghĩa vụ sử dụng sáng chế sau khi kết thúc bốn năm kể từ ngày nộp đơn đăng ký sáng chế và kết thúc ba năm kể từ ngày cấp Bằng độc quyền sáng chế.
Người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thỏa thuận với người nắm độc quyền sử dụng sáng chế về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế. Mặc dù đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện thương mại thỏa đáng trong một thời gian hợp lý. Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh Điều kiện hạn chế quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định bắt buộc Quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đáp ứng các điều kiện sau:
Quyền sử dụng được chuyển giao thuộc dạng không độc quyền. Quyền sử dụng được chuyển giao chỉ được giới hạn trong phạm vi và thời hạn đủ để đáp ứng mục tiêu chuyển giao. Và chủ yếu để cung cấp cho thị trường trong nước. Trừ trường hợp người nắm độc quyền sử dụng sáng chế bị coi là thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.
Đối với sáng chế trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn thì việc chuyển giao quyền sử dụng chỉ nhằm mục đích công cộng, phi thương mại hoặc nhằm xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của pháp luật về cạnh tranh;
Người được chuyển giao quyền sử dụng không được chuyển nhượng quyền đó cho người khác. Trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh doanh của mình. Và không được chuyển giao quyền sử dụng thứ cấp cho người khác. Người được chuyển giao quyền sử dụng phải trả cho người nắm độc quyền sử dụng sáng chế một khoản tiền đền bù thỏa đáng. Tùy thuộc vào giá trị kinh tế của quyền sử dụng đó trong từng trường hợp cụ thể. Phù hợp với khung giá đền bù do Chính phủ quy định. Ngoài những điều kiện trên, trong trường hợp sáng chế phụ thuộc tạo ra một bước tiến quan trọng về kỹ thuật so với sáng chế cơ bản và có ý nghĩa kinh tế lớn.
Quyền sử dụng sáng chế được chuyển giao còn phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Người nắm độc quyền sử dụng sáng chế cơ bản cũng được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phụ thuộc với những điều kiện hợp lý. Người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cơ bản không được chuyển nhượng quyền đó. Trừ trường hợp chuyển nhượng cùng với toàn bộ quyền đối với sáng chế phụ thuộc.
Ví dụ: Đứng trước tình hình dịch bệnh Covid-19 lan rộng như trước đây, việc thúc đẩy sản xuất và phân phối vaccine (vắc xin) là giải pháp cấp bách. Trên thế giới có nhiều cách tiếp cận vaccine như thông qua những cơ chế thương mại, mua trực tiếp, thông qua viện trợ, nhập khẩu song song, bắt buộc chuyển giao bằng sáng chế và tự sản xuất Vaccine. Mỗi cơ chế sẽ có những thuận lợi và bất lợi rất khác nhau. Tùy theo điều kiện mỗi quốc gia mà cách thức áp dụng cũng khác nhau
Một trong những phương pháp tiếp cận Vaccine nhanh nhất là thông qua việc sử dụng sáng chế của một công ty dược phẩm đã sản xuất thành công của những công ty dược phẩm trước. Xuất phát từ luật Sở hữu trí tuệ bảo vệ bằng sáng chế thông qua cơ chế cấp văn bằng bảo hộ độc quyền sáng chế. Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ cũng đưa ra cơ chế bảo hộ bằng độc quyền sáng chế thông qua các cơ chế như bắt buộc chuyển giao bằng độc quyền sáng chế. Điều này đã được khẳng định trong các quy định của pháp luật quốc tế như trong Hiệp định TRIPS, tuyên bố Doha về việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Sáng chế Vaccine của các công ty dược phẩm được bảo hộ bởi bằng độc quyền sáng chế. Quyền độc quyền đối với sáng chế sẽ ngăn chặn những chủ thể khác sử dụng sáng chế mà không xin phép, không trả tiền đền bù tương ứng. Sáng chế dược phẩm Vaccine có thời hạn bảo hộ là 20 năm. Nếu như các công ty dược phẩm lớn sản xuất thành công Vaccine điều trị Covid-19 có thể chia sẽ bằng sáng chế vaccine điều trị Covid-19 cho các doanh nghiệp ở các quốc gia trên thế giới để cùng nhau giải quyết đại dịch thì sẽ trở thành một vấn đề đơn giản hơn. Vì hiện tại các quốc gia cũng khá riêng rẽ trong việc hành động chống lại dịch bệnh. Điều này lý giải bởi năng lực các quốc gia có hạn, hoặc là cách thức phòng dịch của mỗi quốc gia khác nhau. Pháp luật sở hữu trí tuệ có những quy định về cơ chế bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế.
Tuy nhiên, để áp dụng quy định này, các quốc gia sẽ phải đáp ứng những điều kiện nhất định. Điều 133
“1, Bộ, cơ quan ngang bộ có quyền nhân danh Nhà nước sử dụng hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng sáng chế thuộc lĩnh vực quản lý của mình nhằm mục đích công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc phòng, an ninh, phòng bệnh, chữa bệnh, dinh dưỡng cho Nhân dân và đáp ứng các nhu cầu cấp thiết khác của xã hội mà không cần sự đồng ý của chủ sở hữu sáng chế hoặc người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo hợp đồng độc quyền (sau đây gọi là người nắm độc quyền sử dụng sáng chế) theo quy định tại Điều 145 và Điều 146 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và 2019.
2. Việc sử dụng sáng chế quy định tại khoản 1 Điều này chỉ được giới hạn trong phạm vi và điều kiện chuyển giao quyền sử dụng quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật này, trừ trường hợp sáng chế được tạo ra bằng việc sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật, kinh phí từ ngân sách nhà nước”.
Như vậy, pháp luật đã quy định những trường hợp sử dụng sáng chế nhân danh Nhà nước khi đáp ứng những điều kiện nhất định. Nhà nước cần sử dụng quy định này một cách hợp lý để góp phần bảo vệ lợi ích của nhân dân trong bối cảnh Covid-19. Việc này phải thông qua đàm phán liên tục với những quốc gia sở hữu bằng sáng chế này.