Bản quyền là thuật ngữ được nhắc đến trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ. Qua đó mang đến ý nghĩa của nghiên cứu, phát minh hay sáng tạo trong năng lực, trình độ của con người. Vậy trên thực tế, quyền tác giả và bản quyền có khác nhau không, có phải hay phương diện khác nhau không?
Mục lục bài viết
1. Bản quyền là gì?
Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng rộng rãi trong Sở hữu trí tuệ. Mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Thể hiện các giá trị của tác phẩm, sản phẩm trong hoạt động sáng tạo của con người.
Các cá nhân, tổ chức nắm giữ bản quyền được quyền sử dụng cũng như khai thác các lợi ích liên quan của sản phẩm. Do đó mà pháp luật cũng bảo vệ cho các quyền lợi cơ bản của họ.
Bản quyền là quyền của tác giả, của người sở hữu đối với tác phẩm do mình sáng tác, quản lý. Các đối tượng nắm giữ bản quyền được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật quốc gia. Qua đó cũng có giá trị công nhận trên quốc tế, và được bảo vệ.
Thông thường, tác giả có bản quyền đối với tác phẩm của mình ngay tại thời điểm mà tác giả tạo ra tác phẩm. Các cá nhân khác không được xâm phạm đến các quyền của tác giả về quản lý, sử dụng, khai thác giá trị của tác phẩm nếu chưa được đồng ý.
Các ý nghĩa xác định bản quyền:
Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Các tác phẩm này được thể hiện dưới các sản phẩm của loại hình nghệ thuật khác nhau. Các chương trình máy tính và ghi âm giờ đây cũng được bảo vệ. Từ đó mang đến quyền lợi, lợi ích tốt nhất cho người sở hữu, tác giả của tác phẩm.
Bản quyền được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần và bảo vệ các quyền, lợi ích của tác giả trong các mối liên quan đến tác phẩm. Bởi các tác phẩm mang đến giá trị tinh thần, có thể giúp họ tìm kiếm được các lợi ích vật chất. Nó không khác gì các tài sản họ được hưởng trong quyền lợi đương nhiên.
Hiện nay có nhiều loại hình tác phẩm được bảo hộ về bản quyền như:
– Video, hình ảnh: phim, chương trình phát
– Âm thanh: bản ghi âm âm thanh, bản ghi âm lời nói, bài hát, tác phẩm âm nhạc.
– Tác phẩm viết (văn bản): sách, báo, bản soạn nhạc, kịch bản, bài giảng.
– Trò chơi điện tử và phần mềm máy tính.
Quy định về bản quyền trong Công ước Berne:
Bản quyền cũng được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ khác. Nó gắn liền với các giá trị sở hữu của tác giả.
Theo Công ước Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm có giá trị khác được bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Thể hiện các quyền đương nhiên của tác giả đối với các tác phẩm của họ. Tác giả không cần phải đăng ký chính thức quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia là thành viên của Công ước đó. Tuy nhiên để đảm bảo quyền lợi, tránh tranh chấp, tác giả có thể đăng ký bản quyền cho tác phẩm của mình.
Công ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, theo đó các nước tham gia công ước công nhận các tác phẩm được bảo hộ bản quyền của các nước thành viên, quy định rằng thời gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua đời. Trong thời gian đó, các quyền gắn với tác giả vẫn phải được bảo đảm tuân thủ.
Các quyền của chủ sở hữu bản quyền:
Bản quyền không cần đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tác giả đương nhiên có được bản quyền đối với tác phẩm của mình. Bản quyền này thuộc về tác giả nếu tác phẩm được lưu giữ lại ít nhất một lần trên một phương tiện lưu giữ nào đó.
Việc đăng ký bản quyền sẽ được sử dụng để chứng minh chủ sở hữu hợp pháp khi có tranh chấp với bên thứ 3 liên quan đến quyền sở hữu. Khi đó, tác giả có căn cứ bảo vệ quyền lợi, được bảo vệ về mặt pháp lý.
Trong trường hợp không nắm rõ quy định pháp luật, các tranh chấp có thể phát sinh. Khi đó, rất khó để tác giả có thể chứng minh được tác phẩm là sản phẩm của mình.
2. Quyền tác giả là gì?
Quyền tác giả hay tác quyền (copyright) là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Theo quy định trong pháp luật nước ta, thuật ngữ quyền tác giả là thuật ngữ pháp lý. Qua đó xác định các quyền đối với tác phẩm của họ theo quy định pháp luật, có thể được hiểu là bản quyền.
Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm). Ví dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Như vậy nó cũng đồng nhất với cách hiểu về bản quyền đối với các tác phẩm.
Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm này. Đặc biệt là xác định chủ thể có quyền quản lý, sử dụng cũng như khai thác các giá trị lợi ích trên tác phẩm. Quyền tác giả cũng được đảm bảo nếu có tranh chấp phát sinh.
Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này mới, có một phần công lao của tác giả và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất. Các tiêu chí này giúp quyền lợi của tác giả và ý nghĩa giá trị của tác phẩm được công nhận. Tính sáng tạo, các ý tưởng mới được tác giả triển khai trên thực tế.
3. Quyền tác giả có khác với bản quyền không?
Thực tế hiện nay, bản quyền và quyền tác giả đều được dùng chung và không có bất cứ sự khác biệt nào. Đây là cách sử dụng của nhiều quốc gia trên thế giới khi xây dựng luật, trong đó có Việt nam. Vậy bản quyền và quyền tác có phải là hai khái niệm đồng nhất không?
Pháp luật của các nước quy định về quyền tác giả tương đối giống nhau:
Trước tiên, có thể thấy rằng, mặc dù pháp luật của các nước quy định về quyền tác giả tương đối giống nhau. Cơ bản đều bao gồm các quy định về đối tượng bảo hộ quyền tác giả, các quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, thời hạn bảo hộ quyền tác giả…. Từ đó cho thấy các quyền lợi cơ bản của tác giả đối với các tác phẩm họ sáng tạo ra.
Nhưng trên thực tế, có nước dùng thuật ngữ quyền tác giả, một số nước khác lại sử dụng thuật ngữ bản quyền. Từ đó mang đến các thuật ngữ pháp lý khác nhau để điều chỉnh đối với các quyền sở hữu trí tuệ nói chung.
+ Quyền tác giả là thuật ngữ của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law).
+ Trong khi đó bản quyền lại là thuật ngữ của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common Law).
Đây là hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới, do quan niệm, tư duy pháp luật của hai hệ thống này khác nhau. Chính những quan niệm này dẫn đến một số nội dung tuy cùng chỉ một khái niệm nhưng nội hàm của các từ này lại không đồng nhất. Từ đó mang đến cho ta nhiều cách hiểu trên thực tế khi nghiên cứu pháp luật.
Các khác biệt cơ bản:
Theo đó, dù đều là các khái niệm để chỉ về các quyền đối với tác phẩm nhưng giữa bản quyền và quyền tác giả vẫn có những khác biệt nhất định. Các quốc gia có cách tiếp cận, triển khai và thống nhất về quyền lợi cụ thể cho quyền tác giả hay bản quyền.
– Quyền tác giả:
– Nói ngắn gọn, các nước thuộc hệ thống luật châu Âu lục địa (trong đó tiêu biểu là Pháp) sử dụng thuật ngữ quyền tác giả. Việc sử dụng thuật ngữ này xuất phát từ quan điểm gắn chặt mối quan hệ giữa tác giả với tác phẩm.
Pháp luật cũng chú trọng đến việc bảo hộ quyền của tác giả, đặc biệt là các quyền tinh thần của người sáng tạo ra tác phẩm.
Nhấn mạnh các ý nghĩa của tác giả đối với hoạt động sáng tạo, mang đến sản phẩm có giá trị.
– Bản quyền:
– Trong khi quyền tác giả coi người sáng tạo ra tác phẩm – tác giả là trung tâm và bảo hộ các quyền về cả quyền nhân thân và quyền tài sản thì bản quyền ưu tiên bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả hơn là chính tác giả.
Khi đó, các chủ thể thực hiện quản lý, sử dụng cũng như khai thác tác phẩm đều được bảo hộ. Họ có thể là tác giả hoặc chủ thể có quyền theo quy định pháp luật.
Các nước thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ sử dụng thuật ngữ bản quyền lại xuất phát từ khía cạnh thương mại. Do đó các mục đích sử dụng thuật ngữ bản quyền nhấn mạnh đến quyền sao chép, nhân bản tác phẩm, tức là chú trọng đến giá trị kinh tế của tác phẩm, chứ không phải là nhân thân tác giả. Do đó quyền tinh thần của tác giả không mấy được coi trọng. Bản quyền được nhìn nhận, tiếp cận rộng hơn đối với các chủ thể có quyền.
Tuy nhiên, do sự hội nhập của các quốc gia và các tổ chức quốc tế, pháp luật của các nước giao thoa với nhau nên những khác biệt này cũng dần được thay đổi, hoà hợp với nhau hơn. Các thuật ngữ này cũng không quá khác biệt nhau về đối tượng, cách hiểu và áp dụng thực tế. Do đó để thống nhất, pháp luật các quốc gia phải lựa chọn một thuật ngữ sẽ sử dụng để xây dựng quy phạm pháp luật.
Pháp luật Việt Nam:
Hệ thống các văn bản pháp luật tại Việt Nam hiện tại sử dụng thuật ngữ chính thức đó là quyền tác giả.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết: