Giết người là gì? Tội giết người là gì? Giết người đi tù bao nhiêu năm? Quy định mới về tội giết người theo Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015?
Giết người là một thuật ngữ pháp lý để chỉ bất kỳ hành vi giết người nào của một người khác. Bản thân tội giết người không nhất thiết phải là một tội ác. Ví dụ, một hành vi giết nghi phạm chính đáng của cảnh sát hoặc giết người để tự vệ. Giết người và ngộ sát thuộc loại giết người trái pháp luật. Vậy hành vi giết người đi tù bao nhiêu năm? Quy định mới về tội giết người theo như pháp luật Việt Nam có nội dung ra sao?
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
Mục lục bài viết
1. Giết người là gì?
Những hành vi tước đoạt quyền sống của người khác một cách trái pháp luật thì được gọi chung là giết người. Để xác định được một chủ thể có hành vi giết người hay không thì cần xác định dựa trên việc người bị giết phải là người còn sống. Đồng thời thì người thực hiện hành vi giết người trái pháp luật phải là việc “giết” đã bao hàm sự cố ý, tức là hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó. Cũng chính vì thể mà với những hành vi được xác định là không phải là giết người thường được xác định là hành vi tước đoạt tính mạng người khác không phải do cố ý.
Hầu hết các xã hội coi giết người là một tội cực kỳ nghiêm trọng, và do đó một người bị kết tội giết người sẽ phải nhận những hình phạt khắc nghiệt vì mục đích trừng phạt, răn đe, phục hồi hoặc mất khả năng lao động. Ở hầu hết các quốc gia, một người bị kết tội giết người thường phải đối mặt với bản án tù dài hạn, bản án chung thân hoặc tử hình.
Mặt khách quan của tội phạm được xác định là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài thế giới khách quan bao gồm:
– Hành vi khách quan
– Hậu quả nguy hiểm cho xã hội
– Mối quan hệ nhân quả giữ hành vi và hậu quả
– Công cụ phạm tội;
– Phương tiện phạm tội;
– Phương pháp phạm tội;
– Thủ đoạn phạm tội;
– Hoàn cảnh phạm tội;
– Địa điểm phạm tội.
Một trong những ý nghĩa quan trọng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và xác định hình phạt đó là việc xác định biểu hiện thuộc mặt khách quan. Việc nghiên cứu, xác định những mặt khách quan là rất quan trọng bởi chúng là dấu hiệu bắt buộc và có ý nghĩa về mặt định tội.
2. Tội giết người là gì?
Tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng từ khách quan và chủ quan được quy định trong Luật Hình sự mà những hành vi này thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm thì xem đó là hành vi cấu thành tội phạm. Việc này có thể hiểu là tội phạm được xác định khi có các dấu hiệu là một hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Do đó, cấu thành tội phạm phải có các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đồng thời thì cấu thành tội phạm chỉ được xác định khi đã tổng hợp đầy đủ các dấu hiệu pháp lý thì mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.
Việc có hành vi gây ra cái chết và chấm dứt sự sống của người khác thì được xem là việc thực hiện hành vi giết người. Những người có hành vi năng lực hình sự và đạt độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật thì được xác định là chủ thể của tội giết người.
– Quyền được bảo vệ và tôn trọng về sức khỏe, tính mạng của con người được xác định là khách thể của tội giết người.
– Thông qua việc thực hiện hành vi dùng mọi thủ đoạn nhằm khiến người khác chấm dứt sự sống nhằm mục đích có hành vi tước đoạt mạng sống của người khác đó là mặt khách quan của tội phạm. Đối với trường hợp xác định là cấu thành tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng khi một chủ thể vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà làm chết người.
– Lỗi của người phạm tội sẽ giúp chúng ta xác định được mặt chủ quan của tội phạm. Lỗi của người phạm tội bao gồm: lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
+ Lỗi cố ý trực tiếp là việc người phạm tội đã thấy trước được hậu quả chết người có thể xảy ra, nhưng do mong muốn hậu quả đó xảy ra nên đã thực hiện hành vi phạm tội.
+ Lỗi cố ý gián tiếp là việc người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình có thể gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả, tuy không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả.
– Không những vậy mà còn có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về hậu quả là cái chết của nạn nhân nếu hành vi mà họ thực hiện là nguyên nhân gây ra hậu quả làm chết người.
3. Giết người đi tù bao nhiêu năm?
Một trong những hành vi có tính chất nguy hiểm xâm phạm trực tiếp đến quyền được sống, đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe của con người có là hành vi giết người của một chủ thể. Vậy đối với những chủ thê có hành vi giết người theo lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp theo như quy định tại Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 thì Nhà nước có xử lý mạnh với những hành vi giết người này, với mức án khác nhau đối với hành vi khác nhau, như sau:
Trong quy định của
– Mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hay tử hình nếu giết người trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 123 Tội giết người Bộ luật Hình sự.
– Mức phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: trường hợp này sẽ không bao gồm các hành vi như đã đề cập trên đây (khoản 1 – Điều 123 Bộ luật hình sự)
– Mức phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: Áp dụng đối với những trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người
Như vậy, đối với tội giết người được quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì sẽ bị phạt tù với các khing hình phạt từ 01 năm đến 05 năm, từ 07 năm đến 15 năm, từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hay tử hình. Viws mỗi khung hình phạt khác nhau thì sẽ áp dụng với tộ danh khác nhau và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng khác nhau và từ đó xác định khung hình phạt một cách chính xác nhất.
4. Quy định mới về tội giết người:
Tội giết ngời được quy định tại điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015 cụ thể như sau:
“Điều 123. Tội giết người
1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Giết 02 người trở lên;
b) Giết người dưới 16 tuổi;
c) Giết phụ nữ mà biết là có thai;
d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;
h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;
i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;
k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;
l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;
m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;
n) Có tính chất côn đồ;
o) Có tổ chức;
p) Tái phạm nguy hiểm;
q) Vì động cơ đê hèn.
2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm”.
Theo luật thông thường (luật bắt nguồn từ tập quán và các quyết định của
– Cố ý gây tổn hại cơ thể nghiêm trọng dẫn đến cái chết của nạn nhân.
– Có hành vi thể hiện quá khích, liều lĩnh, coi thường tính mạng và dẫn đến cái chết của nạn nhân.
Trong xã hội ngày nay, tội giết người được xác định bằng quy chế hơn là luật thông thường. Mặc dù các quy chế ngày nay bắt nguồn từ luật thông thường, nhưng người ta phải xem xét các quy chế này để có những phân biệt quan trọng — như sự khác biệt giữa tội giết người cấp độ một và cấp độ thứ hai.
Tuy nhiên, nói chung, ngộ sát không liên quan đến loại “ác ý” mà giết người thường làm. Trong các vụ án hình sự trong thế giới thực, sự lựa chọn của bồi thẩm đoàn giữa giết người và ngộ sát có thể ít phụ thuộc vào các quy tắc pháp lý trừu tượng hơn là phán quyết về mức độ đáng trách về mặt đạo đức của bị cáo.
Như vậy, mức phạt đối với những hành vi giết người sẽ là khác nhau, tùy thuộc vào hành vi mà người đó thực hiện như thế nào, gây hậu quả ra sao và đã được quy định như đã nêu ở trên.