Khái quát về hợp tác quốc tế? Hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học có tên tiếng Anh là gì? Các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học?
Một yếu tố bên ngoài mới và đang phát triển nhanh chóng ảnh hưởng đến sự đổi mới ở cấp độ quốc gia là quá trình toàn cầu hóa ngày càng tăng và sự tương tác khoa học và kinh tế giữa các quốc gia. Hợp tác quốc tế ở tất cả các cấp – nghĩa là ở cấp chính phủ, công ty hoặc cá nhân người đổi mới – mở ra những chân trời mới cho việc sáng tạo đổi mới ở cấp toàn cầu và sau đó là ở cấp quốc gia cũng như ngược lại. Nói cách khác, nghiên cứu và đổi mới được tạo ra trong nước có thể tạo ra giá trị gia tăng và nhiều ưu đãi hơn ở cấp độ quốc tế, thông qua hợp tác quốc tế và các kênh tương tác như hiệp ước, thỏa thuận và khuôn khổ hợp tác. Vậy hoạt động hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học được pháp luật Việt Nam quy định như thế nào? Hãy tìm hiểu nội dung này trong bài viết dưới đây:
Tổng đài Luật sư
Cơ sở pháp lý:
–
–
– Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
Mục lục bài viết
1. Khái quát về hợp tác quốc tế?
Trước khi đi vào tìm hiểu về việc pháp luật Giáo dục Việt Nam quy định về hoạt động hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học như thế nào thì trước hết tác giả sẽ gửi tới quý bạn đọc khái niệm về nội dung liên quan đến hợp tác là gì? Hợp tác quốc tế là gì? Giáo dục đại học là gì? Việc đưa ra các khái niệm này sẽ giúp quý bạn đọc tiếp cần nội dung bài viết một cách dễ ràng hơn.
Thứ nhất, Hợp tác được hiểu một cách đơn giản nhất đó chính là việc thực hiện một công việc, mục đích chung và vì lợi ích chung thông qua hoạt động góp sức, tài sản, kiến thức,… của một số đối tượng cùng chung mục tiêu xây dựng.
Thứ hai, Hợp tác quốc tế sẽ được biết đến là sự liên kết lại của một số cá nhân mang trong mình những quốc tịch khác nhau và sinh sống trên các quốc gia trên thế giới. Đồng thời họ sẽ cùng hướng tới một mục tiêu, không chống phá, chiến tranh với nhau.
Hợp tác quốc tế, tương tác và toàn cầu hóa, có thể:
– Tạo điều kiện cho nguồn nhân lực liên quan đến đổi mới để có được các kỹ năng và bí quyết mới;
– Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm các quỹ cần thiết để hỗ trợ đổi mới sáng tạo ở cấp quốc gia;
– Tạo điều kiện sử dụng chung các cơ sở hạ tầng trình diễn;
– Được hưởng lợi từ mạng lưới quốc tế và sự công nhận của thị trường; tìm thị trường rộng lớn hơn cho các sản phẩm hoặc dịch vụ sáng tạo mới.
Thứ ba, giáo dục đại học là giáo dục đại học dẫn đến việc trao bằng cấp học thuật. Giáo dục đại học, còn được gọi là giáo dục sau trung học, giáo dục cấp ba hoặc cấp ba, là giai đoạn cuối cùng không bắt buộc của quá trình học chính thức xảy ra sau khi hoàn thành giáo dục trung học. Giáo dục đại học ở cấp độ không cấp bằng đôi khi được gọi là giáo dục cao hơn hoặc giáo dục thường xuyên khác với giáo dục đại học.
Giáo dục Đại học được cung cấp bởi các trường đại học, học viện, cao đẳng, chủng viện, nhạc viện và học viện công nghệ và một số tổ chức cấp cao đẳng nhất định, bao gồm các trường dạy nghề, đại học khoa học ứng dụng, trường thương mại và các trường cao đẳng nghề nghiệp khác cấp bằng. Giáo dục đại học ở cấp độ không cấp bằng đôi khi được gọi là giáo dục nâng cao hoặc giáo dục thường xuyên khác với giáo dục đại học.
Giáo dục đại học bao gồm giảng dạy, nghiên cứu, công việc ứng dụng chính xác (ví dụ: trong các trường y và trường nha khoa), và các hoạt động dịch vụ xã hội của các trường đại học
Trong lĩnh vực giảng dạy, nó bao gồm cả cấp độ đại học và cao hơn nữa, cấp độ sau đại học (hoặc cấp độ sau đại học). Cấp độ giáo dục sau này thường được gọi là cao học. Ngoài các kỹ năng dành riêng cho bất kỳ mức độ cụ thể nào, các nhà tuyển dụng tiềm năng trong bất kỳ ngành nghề nào cũng đang tìm kiếm bằng chứng về tư duy phản biện và kỹ năng lập luận phân tích, kỹ năng làm việc nhóm, hiểu biết về thông tin, phán đoán đạo đức, kỹ năng ra quyết định, nói và viết lưu loát, kỹ năng giải quyết vấn đề và kiến thức rộng về nghệ thuật tự do và khoa học
2. Hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học có tên tiếng Anh là gì?
Hợp tác quốc tế có tên trong tiếng Anh là: “International cooperation”.
International cooperation is defined as:
According to the Vietnamese dictionary, “cooperation” is understood as working together to help each other in a certain work or field, for a common purpose. Accordingly, “international cooperation” is the activities of countries around the world that cooperate with each other to help each other for common interests in a certain field. International cooperation is derived from two or more subjects and are different countries, helping each other to develop together in many aspects from economy, society to culture and education.
Hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học có tên tiếng Anh là: “International cooperation of higher education institutions”.
International cooperation in education is defined as follows:
International cooperation in the field of education is an activity of linking and coordinating training and education among many countries or territories around the world to promote the development of quality and quantity of education. Training activities in international cooperation are taking place strongly and in the field of undergraduate and postgraduate training.
3. Các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học?
Cơ sở giáo dục đại học có nghĩa là một cơ sở học tập bao gồm một trường đại học, một cơ sở được coi là trường đại học, một trường cao đẳng, một học viện, một cơ sở có tầm quan trọng quốc gia được tuyên bố như vậy bởi Đạo luật của Quốc hội, hoặc một đơn vị cấu thành của cơ sở đó, được truyền bằng cách thực hiện các lớp học thông thường hoặc thông qua các hệ thống giáo dục từ xa, giáo dục đại học hoặc nghiên cứu trong đó.
Trên cơ sở quy định tại Điều 44 của Luật Giáo dục đại học thì có các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học sau đây:
“1. Liên kết đào tạo.
2. Thành lập văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam.
3. Hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, tổ chức hội nghị, hội thảo khoa học.
4. Tư vấn, tài trợ, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, trang thiết bị.
5. Bồi dưỡng, trao đổi giảng viên, nghiên cứu viên, cán bộ quản lý và người học.
6. Liên kết thư viện, trao đổi thông tin phục vụ hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ; cung ứng chương trình đào tạo; trao đổi các ấn phẩm, tài liệu và kết quả hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ.
7. Tham gia các tổ chức giáo dục, khoa học, hội nghề nghiệp khu vực và quốc tế.
8. Mở văn phòng đại diện cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam ở nước ngoài.
9. Các hình thức hợp tác khác theo quy định của pháp luật”.
Trong đó, có thể thấy rằng hoạt động hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và cơ sở giáo dục đại học nước ngoài được gọi chung lại là hoạt động liên kết đào tạo được quy định tại Khoản 1 Điều này để thực hiện mục đích thực hiện chương trình đào tạo để cấp văn bằng hoặc cấp chứng chỉ mà không thành lập pháp nhân.
Bên cạnh quy định về việc không thành lập pháp nhân thì tại Khoản 2 Điều 44 Luật này cũng có quy định về việc thành lập văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục đại học nước ngoài tại Việt Nam. Việc thành lập này được pháp luật quy định văn phòng đại diện sẽ là đơn vị phụ thuộc của tổ chức, cơ sở giáo dục nước ngoài, được thành lập và hoạt động tại Việt Nam. Đối với văn phòng đại diện được thành lập nhằm mục đích xúc tiến, phát triển hợp tác và đầu tư trong giáo dục theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Trên thực tế hiện nay thì trong lĩnh vực giáo dục đại học, hoạt động đào tạo quốc tế cũng diễn ra rất sôi nổi và dần mang sự quan trọng nhất định đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Tầm quan trong của việc hợp tác quốc tế thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
– Nền giáo dục Việt Nam có sự phát triển rất lớn thông qua sự thúc đẩy của hoạt động hợp tác quốc, trong quá trình hợp tác với các quốc gia phát triển trên thế giới đã tạo nên sự cải tiến, nâng cao, hiện đại hoá, cập nhật tri thức mới, cộng nghệ mới của nền giáo dục đại học Việt Nam so với trước đây để phù hợp với tình hình hội nhập quốc tế sâu rộng về giáo dục nhưng vẫn phải giữ vững bản sắc, văn hoá đặc trưng của dân tộc và khẳng định được chủ quyền của quốc gia.
– Trong quá trình họp tác này nhằm năng cao năng lực cạnh tranh với các hình thức giáo dục khác, thu hút nhiều nhân tài hơn nữa của cơ sở giáo dục nghề nghiệp tại Việt Nam so với các cơ sở giáo dục quốc tế uy tín. Giúp xây dựng một đội ngũ nhân tài lớn cho đất nước.