Chỉ thị 03/CT-BTP năm 2011 về tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở do Bộ Tư pháp ban hành. Tập trung xây dựng, hoàn thiện thế chế và thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở
CHỈ THỊ
VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
Thực hiện Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 12 năm 1998 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh) và Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở (sau đây gọi tắt là Nghị định), trong những năm qua, tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên phạm vi toàn quốc đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mạng lưới Tổ hòa giải được thành lập rộng khắp; hoạt động quản lý nhà nước về hòa giải từ Trung ương đến địa phương đã được quan tâm chỉ đạo và dần đi vào nề nếp; chất lượng, hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên, hàng năm tỷ lệ hòa giải thành đạt trên 80%; hoạt động hòa giải ở cơ sở đã giải quyết kịp thời nhiều vụ, việc vi phạm pháp luật, mâu thuẫn và tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, qua đó góp phần giảm số lượng vụ, việc phải chuyển đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giữ gìn tình đoàn kết, gắn bó trong nội bộ nhân dân, phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân tại cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận, ổn định, thúc đẩy kinh tế – xã hội ở địa phương phát triển.
Tuy nhiên, qua kết quả tổng kết công tác hòa giải ở cơ sở nhận thấy, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở vẫn còn một số hạn chế như: Mạng lưới hòa giải chưa đồng đều, số lượng tổ viên Tổ hòa giải còn ít; Tổ hòa giải ở một số nơi hoạt động còn mang tính hình thức, chiếu lệ dẫn đến hiệu quả hoạt động thấp; một bộ phận tổ viên Tổ hòa giải còn hạn chế về kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải dẫn đến chất lượng hòa giải nhiều việc chưa cao; kinh phí dành cho công tác hòa giải, chế độ đãi ngộ, bồi dưỡng cho tổ viên Tổ hòa giải nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức, kịp thời; việc lưu trữ, thống kê vụ việc chưa đi vào nề nếp, nhiều Tổ hòa giải chưa mở sổ theo dõi, chưa cập nhật đầy đủ thông tin về các vụ việc hòa giải, gây khó khăn cho công tác quản lý. Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến vị trí của công tác này trong xã hội, làm cho nhiều người không tự nguyện, nhiệt tình tham gia các hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong công tác hòa giải ở cơ sở thời gian qua là: Pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa hoàn thiện, một số quy định trong Pháp lệnh và Nghị định về công tác hòa giải ở cơ sở còn chung chung, không rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng chưa được thống nhất; quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có nơi, có lúc chưa được quan tâm; Sở Tư pháp ở một số địa phương chưa thực sự chủ động, chưa làm tốt vai trò tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp trong quản lý công tác hòa giải ở cơ sở; Tổ hòa giải không được kiện toàn kịp thời, hoạt động bị thả nổi, hiệu quả thấp; chính quyền ở một số nơi chưa thực sự nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, nên thiếu sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho công này; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận các cấp chưa nhận thức rõ vị trí, vai trò của mình trong công tác hòa giải nên sự phối hợp với chính quyền, cơ quan Tư pháp thiếu chặt chẽ trong việc củng cố Tổ hòa giải, tạo điều kiện cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân và