Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã? Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã?
Nhà nước hiện quản lý đất nước thông qua việc phân cấp thành các đơn vị hành chính, gồm cấp tỉnh, huyện và xã. Có thể thấy, xã chính là đơn vị nhỏ nhất trong việc phân cấp hành chính ở nước ta. Chính quyền địa phương ở xã được tổ chức bao gồm Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân dân xã. Trong đó, Hội đồng nhân dân xã chính là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ cung cấp các thông tin về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã.
Luật sư
1. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã
Trong bộ máy nhà nước ta hiện nay, cấp chính quyền địa phương ở cơ sở góp một vai trò quan trọng, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng và nhà nước, trực tiếp tổ chức thi hành đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, đảm bảo hiệu quả triển khai nghị quyết của Đảng và những quy định của nhà nước tại địa phương.
Căn cứ vào nhận thức chung về Hội đồng nhân dân đã được xác định trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 cũng như căn cứ vào tính đặc thù của địa bàn cơ sở, có thể đưa ra khái niệm Hội đồng nhân dân xã như sau: Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, bao gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân xã do cử tri trong xã trực tiếp bầu ra đại diện cho cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân toàn xã, có toàn quyền quyết định việc xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại địa phương theo quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân trong xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
Hội đồng nhân dân xã là cấp thấp nhất trong tổ chức ba cấp chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân xã là nền tảng của hệ thống chính quyền địa phương từ cấp tỉnh đến cấp xã, là nơi gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân, nắm vững những đặc điểm của địa phương.
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan dân cử đại diện cho nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn Hội đồng nhân dân xã được thành lập thông qua chế độ bầu cử, do cử tri trên địa bàn xã, phường, thị trấn trực tiếp bầu ra đại biểu HĐND cấp xã theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tại Khoản 1 Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định về số lượng giới hạn đại biểu của Hội đồng nhân dân xã. Theo quy định này, thì số lượng đại biểu của Hội đồng nhân dân xã phụ thuộc vào số lượng dân cư sinh sống trên địa bàn xã, tuy nhiên, giới hạn tối đa số đại biểu Hội đồng nhân dân xã là 30 đại biểu.
Theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019 quy định tại Điều 32, Hội đồng nhân dân xã gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân xã do cử tri trong xã, phường, thị trấn trực tiếp bầu ra. Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã và các Ủy viên là Hội đồng nhân dân xã (Khoản 2 Điều 32)
Hội đồng nhân dân xã được thành lập Ban Pháp chế và Ban Kinh tế – Xã hội. Đây là điểm mới trong cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động Hội đồng nhân dân xã thực sự có hiệu lực và hiệu quả. Bộ máy của Hội đồng nhân dân xã duy nhất chỉ có Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã là đại biểu Hội đồng nhân dân xã chuyên trách, đa số đại biểu Hội đồng nhân dân xã là hoạt động kiêm nhiệm.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã được quy định tại Điều 33 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2019. Theo đó, thì Hội đồng nhân dân xã có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Thứ nhất, ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã. (Khoản 1 Điều 33)
Hội đồng nhân dân xã làm việc theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số. Hình thức hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân xã là thông qua kỳ họp. Hội đồng nhân dân xã họp mỗi năm ít nhất hai kỳ. Mọi quyết định của Hội đồng nhân dân xã đều thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân xã, tức là Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã phải được thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân xã và phải được đại biểu Hội đồng nhân dân xã biểu quyết tán thành. Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã được thông qua khi có quá nửa tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân xã biểu quyết tán thành.
Thứ hai, Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh, phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã. (Khoản 2 Điều 33)
Hội đồng nhân dân xã thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, thay mặt nhân dân quyết định các công việc liên quan đến đời sống, kinh tế – xã hội của địa phương và chịu trách nhiệm trước nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân địa phương, do đó mọi quyết định của HĐND xã sát hợp với nguyện vọng của nhân dân. Những quyết định này phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân địa phương, đồng thời phù hợp với lợi ích toàn dân, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và trung ương. Các vấn đề được quy định tại Khoản 2 trên chính là các vấn đề phát sinh trực tiếp phát sinh trong xã hội, ảnh hưởng trực tiếp của người dân. Do đó, đại biểu Hội đồng nhân dân trước hết cũng chính là người dân, tiếp nữa là người đại diện của nhân dân, nên họ chính là người quyết định những vấn đề xảy ra hàng ngày tại chính xã mà họ là đại biểu Hội đồng nhân dân.
Thứ ba, Hội đồng nhân dân xã bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân xã. (Khoản 3 Điều 33)
Hội đồng nhân dân xã là cơ quan trực tiếp thiếp lập nên bộ máy nhà nước ở cấp xã, thực hiện việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên Ủy ban nhân dân xã do Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước ở địa phương Hội đồng nhân dân xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp xã. Hội đồng nhân dân xã được nhân dân địa phương giao quyền thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân. Ủy ban nhân dân xã do Hội đồng nhân dân xã bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân xã, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân xã và cơ quan nhà nước cấp trên.
Thứ tư, Hội đồng nhân dân xã thông qua kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội hằng năm của xã trước khi trình Ủy ban nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt. Như ở trên đã khẳng định, Hội đồng nhân dân xã chính là cơ quan “của dân, do dân và vì dân” mà kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội chính là vấn đề phải lấy nhân dân làm gốc thì mới có thể xây dựng được kế hoạch đúng đắn, đảm bảo lợi ích chính đáng của người dân. Do đó, Hội đồng nhân dân xã đại diện cho toàn bộ người dân để quyết định về việc có đồng ý với kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của xã hay không.
Hội đồng nhân dân xã có quyền quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo sự duy trì hoạt động của các cơ quan nhà nước ở địa phương cũng như để thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội. Nếu không có ngân sách nhà nước thì chính quyền cũng như các mục tiêu kinh tế- xã hội của xã cũng không thể thực hiện được. Ủy ban nhân dân xã có trách nhiệm xây dựng dự toán thu, dự toán chi ngân sách xã để Hội đồng nhân dân xã dựa trên cơ sở đó để quyết định, phê chuẩn dự toán sao cho phù hợp với điều kiện thực tế cũng như kế hoạch phát triển của xã.
Hội đồng nhân dân xã quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án của xã trong phạm vi được phân quyền. Những chủ trương đầu tư, dự án xã vừa thuộc kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của xã, đồng thời cũng sử dụng ngân sách của xã, do đó, Hội đồng nhân dân xã có quyền quyết định việc thực hiện các dự án này hoàn toàn hợp lý/.
Thứ năm, Hội đồng nhân dân xã giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp. (Khoản 5 Điều 33)
Bên cạnh việc thực hiện chức năng “quyết định” thì Hội đồng nhân dân xã còn thực hiện chức năng “giám sát”. Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân xã được thể hiện rõ qua quy định trên. Việc tuân thủ pháp luật là nghĩa vụ của người dân và của cơ quan nhà nước ở xã. Tuy nhiên, không thể để cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân xã vừa là cơ quan thực thi pháp luật lại là cơ quan giám sát việc thực thi pháp luật đó được, do vậy mà Hội đồng nhân dân xã thực hiện việc giám sát trong trường hợp này. Bên cạnh đó, Nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã có quyết định bắt buộc thi hành, nên Hội đồng nhân dân xã cũng sẽ giám sát đối với việc thực hiện Nghị quyết do mình ban hành.
Song song với giám sát thực thi pháp luật thì Hội đồng nhân dân còn giám sát cả đối với các hoạt động khác của cơ quan do mình thiết lập và Ủy ban nhân dân xã và các Ban Hội đồng, Thường trực của Hội đồng nhân dân xã.
Thứ sáu, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân xã bầu theo quy định. (Khoản 6 Điều 33) Việc lấy phiếu tín nhiệm chính là một trong các phương thức để kiểm tra hoạt động của các đại biểu Hội đồng nhân dân xã từ người dân, việc này thể hiện được quyền giám sát của người dân đối với các cơ quan, cán bộ nhà nước.
Thứ bảy, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân xã và chấp nhận việc đại biểu Hội đồng nhân dân xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu. Việc bầu ra Hội đồng nhân dân là do người dân thực hiện để làm đại diện cho người dân. Nên khi đại biểu thuộc Hội đồng nhân dân không đủ các điều kiện làm đại biểu hoặc không có mong muốn làm đại biểu thì những người đại diện cho nhân dân là Hội đồng nhân dân sẽ thay người dân quyết định vấn đề này.
Thứ tám, Hội đồng nhân dân xã bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Quyền hạn này cũng thể hiện chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân, nhằm kịp thời phát hiện những sai phạm trong văn bản được ban hành để loại bỏ kịp thời.