Quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử? Quy định về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm?
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm có những vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đảm bảo quyền lợi của các đương sự và đưa ra phán quyết của
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử:
Theo Điều 24
– Tòa án sẽ cần có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
– Các đương sự, chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ
– Trong quá trình xét xử, mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tòa án điều hành việc tranh tụng, hỏi những vấn đề chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra bản án, quyết định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử, ta có thể thấy, pháp luật Việt Nam đã được cải cách theo xu hướng của mô hình tố tụng tranh tụng. Đây là một xu hướng này là hoàn toàn phù hợp đối với sự phát triển của quá trình tranh tụng, đặc biệt trong giải quyết các tranh chấp dân sự và nên xem xét để không ngừng hoàn thiện. Hiện nay, việc tìm ra sự thật, giải quyết tranh chấp dân sự bảo vệ quyền lợi của các bên đương sự là yêu cầu quan trọng hơn hết, do vậy mà các bên là người thấu hiểu đối với vấn đề có thể xử lý và giải quyết các tranh chấp này. Tòa án cũng như trọng tài cần xem đây là bên thứ ba trung gian giúp các bên giải quyết tranh chấp của chính họ.
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được ban hành cũng đã đưa ra quy định cụ thể về thời hạn giao nộp chứng cứ, về phiên họp giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhằm để triển khai có hiệu quả và đáp ứng nội dung quy định của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử.
Trên thực tế, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng có phạm vi tác động rất lơn, không chỉ đối với cơ quan tòa án mà nó còn có tác động đối với cả quá trình tố tụng nói chung. Bởi lẽ, quá trình tố tụng liên quan tới nhiều cơ quan nhà nước và gồm nhiều công đoạn cụ thể có mối liên hệ chặt chẽ với nhau như khởi tố, truy tố rồi mới tới xét xử. Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử về cơ bản đã đặt vai trò của luật sư và viện kiểm sát phải có các quyền ngang nhau để có thể tạo ra một sự tranh tụng công bằng khi xét xử.
2. Quy định về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa dân sự sơ thẩm:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng quy định về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm với 17 điều luật được quy định cụ thể từ Điều 247 đến Điều 263. Cụ thể tại Điều 247 quy định về nội dung và phương thức tranh tụng tại phiên tòa có nội dung cụ thể như sau:
“1. Tranh tụng tại phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ, tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án.
2.Việc tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa.
3.Chủ tọa phiên tòa không được hạn chế thời gian tranh tụng, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh tụng trình bày hết ý kiến nhưng có quyền yêu cầu họ dừng trình bày những ý kiến không có liên quan đến vụ án dân sự”.
Như vậy, ta nhận thấy, Điều 247 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định rõ phương thức tranh tụng tại phiên tòa, trình tự tranh tụng, trách nhiệm và quyền hạn của chủ tọa phiên tòa trong tranh tụng. Tuy nhiên, nhằm mục đích để bảo đảm thực hiện đúng quy định tại Điều 247, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định cụ thể về trình tự, nội dung tranh tụng tại các điều luật từ Điều 248 đến Điều 263 để các chủ tọa phiên tòa điều hành và để các chủ thể là người tham gia tố tụng tại phiên tòa, cơ quan tiến hành tố tụng dân sự giám sát việc thực hiện phương thức tranh tụng của Hội đồng xét xử theo đúng quy định của pháp luật.
Trên thực tế, cũng cần lưu ý rằng, trong quá trình khi các chủ thể thực hiện quy định tại Điều 247 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 lại cần phải thực hiện theo điều luật quy định cụ thể về vấn đề đó.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành theo các bước sau đây:
– Bước 1: Trình bày của đương sự, người bảo vệ quyền và lọi ích hợp pháp của đương sự.
– Bước 2: Nghe đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày về vụ án.
– Bước 3: Sau khi chủ tọa phiên toà đã thực hiện các hoạt động nghiệp vụ cần thiết như quy định tại các Điều 243, Điều 244, Điều 246, cụ thể như:
+ Hỏi nguyên đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện hay không theo quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Hỏi bị đơn có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu phản tố hay không theo quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu độc lập hay không theo quy định tại Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu theo quy định tại Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Trong trường hợp có đương sự vẫn giữ nguyên các yêu cầu của mình đối với vụ việc và các bên trong vụ án cũng không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết tranh chấp thì hội đồng xét xử sẽ bắt đầu xét xử vụ án bằng việc nghe các bên đương sự trình bày về các yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ tranh chấp theo đúng quy định của pháp luật.
Tranh tụng tại phiên tòa là một thủ tục tố tụng đặc biệt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Trong quá trình này thì Tòa án sẽ công khai cho mọi người biết về: Lời trình bày của đương sự, của người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự; các câu hỏi của Hội đồng xét xử; lời đối đáp của các bên nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; phát biểu của Kiểm sát viên và cũng công khai cho mọi người biết các tài liệu, chứng cứ, vật chứng của vụ án do các bên đương sự cung cấp và Tòa án thu thập trong thời gian chuẩn bị xét xử đối với vụ án theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Trình tự các bên đương sự được trình bày việc kiện tại phiên tòa:
Theo Điều 248 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định trình tự các bên đương sự được trình bày việc kiện tại phiên tòa có nội dung cụ thể như sau:
– Các chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nguyên đơn có quyền bổ sung ý kiến. Đối với trường hợp các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án thì đại diện cơ quan, tổ chức trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
– Các chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn được pháp luật cho phép có quyền bổ sung ý kiến.
– Các chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lọi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được pháp luật cho phép có quyền bổ sung ý kiến.
Ngoài ra, dựa theo ăn cứ pháp luật tại khoản 4 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tại phiên tòa, các đương sự, các chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cùng song hành tham gia tố tụng, cả hai chủ thể này cùng có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của đương sự là chính đáng và hợp pháp nhưng phải tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật hiện hành.