Người tiêu dùng là gì? Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng?
Hiện nay, trong thời buổi kinh tế thị trường, kèm theo đó là sự suất hiện của các giao dịch dân sự, giao dịch trong thương mại, kinh tế được thiết lập rất nhiều. Việc tạo ra các giao dịch này nhằm mục đích thỏa mãn như cầu của con người về mọi mặt trong cuộc sống của mình. Song việc các chủ thể tham giao vào quá trình mua bán, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích sản xuất , kinh doanh không phải lúc nào cũng được diễn ra một cách suôn sẻ mà đôi lúc vì một lý do nào đó mà quyền lợi của những người này bị vi phạm. Do đó, pháp luật đã dự liệu trước được những bất cập này và nhằm mục đích bảo về quyền lợi của người mua hoàng hóa sử dụng dịch vụ hay còn được gọi chung là người tiêu dùng trong
Vậy Bộ luật này quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng như thế nào? Trong bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ giúp bạn đọc tìm hiểu rõ hơn về quy định bảo về quyền lợi của mình trong quá trình tham giao vào việc tiêu dùng trên thị trường để phục vụ cho như cầu sinh hoạt hàng ngày.
Luật sư
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật dân sự năm 2015
1. Người tiêu dùng là gì?
Theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định nội dung sau đây: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”.
Bồi thường thiệt hại được biết đến là trách nhiệm dân sự theo như quy định của pháp luật hiện hành nhằm buộc bên có hành vi gây thiệt hại trong quá trình thực hiện các giao dịch dân sự phải khắc phục hậu quả do mình gây ra đối với bên còn lại bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Trong đo, theo như quy định của pháp luật này thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về vật chất thực tế và được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, ….
Trong nền kinh tế thị trường, các giao dịch dân sự, thương mại, kinh tế diễn ra khá nhộn nhịp và đa dạng với nhiều chủ thể tham gia vào các quan hệ này dưới nhiều hình thức khác nhau. Song không phải mọi chủ thể tham gia vào các quan hệ mua bán, dịch vụ nêu trên đều được coi là người tiêu dùng được bảo vệ theo quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Người tiêu dùng là những người mua, sử dụng hàng hoá , dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân , gia đình và tổ chức.
Khái niệm “ khách hàng ” mang nghĩa rộng hơn, dùng để chỉ người mua hàng hoá, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc làm nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Khái niệm người tiêu dùng hiểu theo nghĩa hẹp là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức. Hiểu theo nghĩa rộng , người tiêu dùng ngoài mục đích mua bán hàng hoá, sử dụng dịch vụ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt có thể còn phục vụ cho nhu cầu tái sản xuất kinh doanh
Trong Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số 13/ 1999/ PL UBTVQH10 ngày 24/07/1999, Điều 1 của Chương 5 quy định: “ Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hoá, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và tổ chức”. Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì người tiêu dùng được hiểu là cá nhân, gia đình hoặc tổ chức thực hiện việc mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ phục vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt và nhu cầu công việc của tổ chức, cá nhân, gia đình. Cụ thể là :
1. Người mua là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân mình;
2. Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc tổ chức sử dụng ;
3. Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua hoặc do được cho, tặng .
Khoản 1 Điều 3 Dự thảo 4 Luật bảo vệ người tiêu dùng quy định: “ Người tiêu dùng là cá nhân , tổ chức mua hoặc sử dụng hợp pháp hang hóa, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh”. Quy định này đã giúp ta có một cách hiểu toàn diện hơn về khái niệm người tiêu dùng. Theo đó “ người tiêu dùng ” không chỉ bao gồm các cá nhân, cá thể mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt mà còn bao gồm cả các tổ chức, pháp nhân có hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ mà không nhằm mục đích kinh doanh. Như vậy, thuật ngữ “ người tiêu dùng ” theo quy định của pháp luật Việt Nam phải được hiểu là những cá nhân, tổ chức mua hoặc sử dụng hợp pháp hàng hóa, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh. Có thể hóa khái niệm trên giúp từng người tiêu dùng cụ thể ý thức được chính đáng họ đang có các quyền mà pháp luật quy định. Mỗi người đều có khả năng sử dụng các công cụ pháp lý để tự vệ khi có sự vi phạm, cho dù sự vi phạm chỉ là cá biệt, không phổ biến và giá trị thiệt hại không đáng kể .
2. Bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
Việc tham gia các quan hệ mua bán, dịch vụ hàng hoá nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng là các quan hệ dân sự. Do vậy, mọi hoạt động mua, bán, trao đổi, dịch vụ hàng hoá … nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng được thực hiện trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự là thuận mua, vừa bán phù hợp với ý chí của các bên, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba. Vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác là một hiện tượng khách quan. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, bảo vệ mạnh mẽ hơn người bị thiệt hại và tăng cường trách nhiệm của người gây thiệt hại, từ đó đẩy mạnh việc phòng ngừa thiệt hại xảy ra, pháp luật buộc người thực hiện hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại và để bảo vệ một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm, việc bồi thường kịp thời và đầy đủ là một trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại.
Việc bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng dưới góc độ lý luận, các nhà làm luật khi thực hiện việc nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì sẽ nghiên cứu và đưa ra các nội dung về khái niệm và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một việc làm cần thiết phải được coi trọng. Bên cạnh đó, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
Bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng là một loại trách nhiệm dân sự đặc thù trong quan hệ tiêu dùng. Theo đó, buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại mà mình gây ra, bằng cách đền bù các tổn thất về vật chất và về tinh thần cho người tiêu dùng.
Bộ luật Dân sự 2015 xác định, chủ thể của quan hệ pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi người tiêu dùng bao gồm chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong việc cung cấp hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hoặc không cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết về việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ đó cho người tiêu dùng, dẫn đến thiệt hại cho người tiêu dùng và chủ thể được bồi thường thiệt hại. Do đó, theo như quy định tại Điều 608 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng: “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.”
– Về cơ sở pháp lý : Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm Dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Dân sự . Khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì họ phải bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại chính là một quan hệ tài sản do Luật Dân sự điều chỉnh và được quy định trong Bộ luật Dân sự ở Điều 528 và Chương XVI và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Dân sự .
– Về điều kiện phát sinh : trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là: Có thiệt hại xảy ra , có hành vi vi phạm nghĩa vụ dân sự ( nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc ngoài hợp đồng ), có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại ( không phải là điều kiện bắt buộc ) . Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể phát sinh khi không có đủ các điều kiện trên điển hình là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra .
– Về hậu quả của hành vi gây thiệt hại cho người tiêu dùng: đây được xem là việc mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hai cho người tiêu dùng về mặt vật chất và tình thần. Bởi lẽ , khi một người gây ra tổn thất cho người tiêu dùng thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền. Mặt khác, những thiệt hại về tinh thần mặc dù không thể tính toán được nhưng việc bồi thường tổn thất về mặt tinh thần cũng sẽ được xác định theo quy định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người tiêu dùng bị thiệt hại trong quá trình giao kết các giao dịch dân sự và cũng chính vì vậy , thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại .