Khái quát về thế chấp tài sản? Các trường hợp chấm dứt thế chấp tài sản?
Sự thiết lập quan hệ giữa người với người trong đời sống dân sự phụ thuộc rất nhiều vào sự thiện chí, trung thực. Điều này được thế hiện rõ qua việc họ có tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã được đặt ra trong sư thỏa thuận đó hay không. Với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, lợi ích là mục tiêu mà các chủ thể trong xã hội luôn hướng tới, điều này đã có tác động, cùng với việc bảo vệ quyền, tạo thế chủ động cho người mang quyền và hạn chế những rủi ro trong thiết lập giao dịch, việc quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa dân sự là cơ chế cấp thiết, trong đó phải kế đến thế chấp tài sản- một biện pháp bảo đảm điển hình, phát huy được tối đa giá trị của một biện pháp bảo đảm, được sử dụng phổ biến, đặc biệt là bên cạnh các hợp đồng vay. Trong bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ phân tích về thế chấp tài sản, trong đó tập trung vào quy định về các trường hợp chấm dứt thế chấp tài sản.
Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
Bộ luật dân sự năm 2015.
1. Khái quát về thế chấp tài sản?
Thế chấp là một từ có nguồn gốc Hán Việt, có nghĩa là “thế là bỏ đi, thay cho”, còn “chấp cầm, giữ, bắt”. Theo từ điển Tiếng Việt giải thích: Thế chấp (tài sản) là dùng vật bảo đảm thay thế cho số tiền vay nếu không có khả năng trả đúng hạn.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học pháp lý, khi tìm hiểu về thế chấp có nhiều hướng tiếp cận khác nhau, đó có thể là việc làm rõ mối quan hệ giữa bên thế chấp với bên nhận thế chấp, trong đó bên thế chấp dùng tài sản của mình để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận thế chấp, và cũng có tác giả tiếp cận thế chấp dưới gốc đô là một loại vật quyền. Họ điều đưa ra được những quan điểm cá nhân và chứng minh đó là quan điểm hợp lí.
Dưới góc độ pháp lý, tại Khoản 1, Điều 317 Bộ luật dân sự giải thích rằng: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Biện pháp thế chấp là biện pháp vừa có yếu tố vật quyền và có cả yếu tố trái quyền. Tính chất vật quyền được thể hiện thông qua các quyền trực tiếp của bên nhận thế chấp đối với tài sản tế chấp. Vật quyền được hiểu là các quyền trực tiếp kiểm soát và /hoặc định đoạt một vật để cho một người sử dụng và hưởng lợi riêng. Tính chất trái quyền được thế hiện thông qua hợp đồng thế chấp được xác lập và phải là một hợp đồng hợp pháp.
Bên cạnh các đặc điểm chung của biện bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự. Biện pháp thế chấp tài sản còn có những đặc điểm riêng so với các biện pháp bảo đảm khác.
– Biện pháp thế chấp được phát sinh trên nhu cầu bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ (đã có hoặc hình thành trong tương lai). Biện pháp này không tôn tại độc lập mà phụ thuộc, gắn liền với nghĩa vụ chính mà nó bảo đảm. Khi có quan hệ nghĩa vụ chính hoặc dự liệu cho một nghĩa vụ chính được hình thành thì các bên mới thỏa thuận thiết lập biện pháp thế chấp tài sản.
– Thế chấp là biện pháp bảo đảm mang tính bảo đảm đối vật. Điều này thể hiện ở việc bên nhận thế chấp có quyền chi phối tài sản thế chấp trong thời gian thực hiện nghĩa vụ và có quyền xử lý tài sản đó để khấu trừ nghĩa vụ khi có hành vi vi phạm xảy ra. Tuy nhiên, tính chất bảo đảm đối vật trong thế chấp không phải là tính chất bảo đảm tuyệt đối.
– Thế chấp không có sự chuyển giao tài sản thế chấp. Tính chất bảo đảm được xác định bằng việc thế chấp phải giao cho bên nhận thế chấp những giấy tờ chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp. Các giấy tờ chứng minh tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp như giấy đăng ký quyền sở hữu tài sản sản (ô tô, xe máy,..); giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,…
– Một tài sản thế chấp bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ (đối với chủ thể quyền khác nhau). Bên bảo đảm chỉ có thể lựa chọn thế chấp nếu muốn một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ đối với nhiều người có quyền khác nhau, vì bên nhận thế chấp không trực tiếp giữ tài sản bảo đảm, quyền lợi của tất cả các chủ nợ được bảo đảm bằng giá trị của tài sản đó.
– Nhiều loại giao dịch thế chấp là đối tượng bắt buộc đăng ký giao dịch bảo đảm và đây cũng là biện pháp bảo đảm được đăng ký nhiều nhất trong thực tế (cả tự nguyện lẫn bắt buộc).
Ý nghĩa quy định của pháp luật về biện pháp thế chấp tài sản:
– Là cơ sở hướng dẫn các chủ thể tham gia vào thực hiện biện pháp thế chấp tài sản.
– Giúp các chủ thể sử dụng biện pháp thế chấp tài sản yên tâm khi thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan đến biện pháp bảo đảm này.
– Giúp các chủ thể nhận biết quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời góp phần thúc đẩy các chủ thể tham gia các biện pháp bảo đảm.
– Là cơ sở pháp lý để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
2. Các trường hợp chấm dứt thế chấp tài sản?
Chấm dứt thế chấp tài sản được quy định tại Điều 327 Bộ luật dân sự. Theo đó, biện pháp thế chấp tài sản chấm dứt trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp chấm dứt làm chấm dứt biện pháp thế chấp tài sản. Biện pháp thế chấp tài sản là nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ được bảo đảm, do đó, khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp thế chấp đã được bên có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ hoặc chấm dứt theo thỏa thuận của các bên hoặc chấm dứt trong các trường hợp khác do pháp luật quy định (bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ; nghĩa vụ được bù trừ; Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;….) thì đương nhiên biện pháp thế chấp cũng sẽ chấm dứt. Nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt là phải là nghĩa vụ một phần hoặc toàn bộ, sự chấm dứt đó mang tính hoàn toàn, chứ không phải chấm dứt một phần hay một thời gian nhất định.
Thứ hai, biện pháp thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác (cầm cố, kỹ quý, bảo lãnh, tín chấp, bảo lưu quyền sở hữu,…) cũng làm chấm dứt biện pháp thế chấp đối với tài sản thế chấp hiện tại. Việc hủy bỏ biện pháp thế chấp tài sản hay thay thế bằng biện pháp khác sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của bên nhận thế chấp nên phải được sự đồng ý của bên nhận thế chấp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp bảo đảm khác thông thường sẽ được các bên thỏa thuận cụ thể, tuy nhiên, biện pháp thế chấp tài sản có thể bị hủy bỏ khi vi phạm pháp luật như giao kết không đúng chủ thể, vi phạm điều cấm,…
Thứ ba, tài sản thế chấp đã được xử lý thì thế chấp tài sản cũng đương nhiên chấm dứt bởi tài sản thế chấp không còn, hay nói cách khác, đối tượng của thế chấp không còn. Việc xử lý tài sản thế chấp làm chấm dứt quyền sở hữu của bên thế chấp, quyền sở hữ được chuyển dịch cho bên nhận thế chấp hoặc người thứ ba để bù đắp cho nghĩa vụ bị vi phạm. Việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện trong các trường hợp:
– Tài sản thế chấp được xử lý khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
– Pháp luật quy định tài sản thế chấp phải được xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Đó có thể là trường hợp 1 tài sản thế chấp dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ, trong đó có nghĩa vụ đã đến hạn thì các nghĩa vụ khác mặc dù chưa đến hạn nhưng được coi là đã đến hạn.
– Các trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Tài sản thế chấp bị xử lý trong trường hợp này không phải do lỗi của bên thế chấp mà do ý chí của các bên.
Thứ tư, biện pháp thế chấp tài sản còn có thể chấm dứt bất cứ lúc nào theo thỏa thuận của các bên, là sự thể hiện của nguyên tắc tôn trọng sự tự do cam kết, thỏa thuận giữa các chủ thể của pháp luật dân sự. Trường hợp này cũng hoàn toàn hợp lý khi trong quan hệ nghĩa vụ, cả hai bên đều tự do lựa chọn biện pháp bảo đảm để áp dụng, thỏa thuận về phạm vi bảo đảm, do vậy họ hoàn toàn có quyền thỏa thuận để định đoạt về việc tiếp tục hay chấm dứt thế chấp tài sản nếu thấy điều đó là có lợi cho mình.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật đã quy định có 4 trường hợp chấm dứt thế chấp tài sản, mọi sự chấm dứt thế chấp tài sản đều dựa trên ý chí, hành vi của bên thế chấp hoặc sự thỏa thuận của bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Hậu quả pháp lý của việc chấm dứt biện pháp thế chấp tài sản sẽ có sự khác nhau trong từng trường hợp, mà hậu quả đó sẽ tác động tới đối tượng của thế chấp là tài sản được thế chấp.