Trong các giao dịch dân sự vớ các hình thức khác nhau mà các bên chủ thể đưa ra thỏa thuận giữa hai bên để xác lập quyền và nghĩa vụ tượng đương với nhau và các bên sẽ bị ràng buộc để thực hiện nghĩa vụ đó. Vậy pháp luật quy định như thế nào về nghĩa vụ. Để cùng hiểu thêm về Nghĩa vụ là gì?
Mục lục bài viết
1. Nghĩa vụ là gì?
Trong cuộc sống hằng này cụm từ nghĩa vụ không còn xa lạ với chúng ta, nghĩa vụ là việc đòi hỏi mỗi công dân phải thực hiện hành vi cần thiết do Nhà nước yêu cầu, nếu không tuân thủ thực hiện đúng thì Nhà nước buộc phải áp dụng biện pháp như giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế. Xem xét khái niệm nghĩa vụ dưới nhiều góc độ, theo nghĩa chung nhất, nghĩa vụ là việc mà theo quy định của pháp luật hay đạo đức mà bắt buộc phải làm hoặc không được làm đối với xã hội, đối với người khác. Theo cách hiểu này thì nghĩa vụ là mối liên hệ giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc nhiều hành vi nhất định vì lợi ích của bên kia.
Theo đó chúng ta có thể hiểu đơn giản về nghĩa vụ đó là việc phải làm theo trách nhiệm thực hiện các công việc của mình,
Đặc điểm đầu tiên của nghĩa vụ dân sự đó chính là một loại quan hệ tài sản theo đó thì các quan hệ tài sản được hiểu là mỗi quan hệ giữa các bên thông qua một lợi ích vật chất cụ thể mà các bên cùng hướng tới. Từ Điều 280 Bộ Luật dân sự 2015 có thể thấy hành vi thực hiện nghĩa vụ có thể là sự chuyển dịch tài sản (vật, tiền, giấy tờ có giá, quyền tài sản) giữa các bên hoặc là một loại quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi (vd: Bồi thường thiệt hại, thực hiện công việc ủy quyền…). Tuy nhiên dù có là một quan hệ chuyển dịch tài sản hay là quan hệ mà trong đó có ít nhất một bên được hưởng lợi thì về bản chất nghĩa vụ dân sự là một quan hệ tài sản.
Đặc điểm thứ hai đó chính là thực hiện nghĩa vụ dân sự được xem là mối quan hệ pháp lý đối với quyền và nghĩa vụ tương ứng ràng buộc giữa các bên chủ thể: Đặc điểm trên cho thấy tính cưỡng chế thi hành của loại quan hệ này. Nghĩa vụ dân sự khác với Nghĩa vụ tự nhiên ở chỗ nó được Nhà nước công nhận và được đảm bảo thi hành bởi pháp luật. Mặc dù nghĩa vụ dân sự là quan hệ giữa các bên nhằm hướng tới một lợi ích nhất định, tuy nhiên lợi ích mà các bên hướng tới không được trái với ý chí của nhà nước và nhà nước sẽ kiểm soát việc sự thỏa thuận cũng như việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua việc quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể đối với từng loại nghĩa vụ dân sự.
Ngoài ra, đặc điểm thứ ba đó chính là thực hiện nghĩa vụ dân sự hành vi thực hiện nghĩa vụ dân sự của chủ thể có nghĩa vụ luôn mang lại lợi ích cho chủ thể có quyền đó xuất phát từ mục đích của các bên chủ thể khi tham gia quan hệ nghĩa vụ dân sự là hướng tới một lợi ích nhất định (vật chất hoặc tinh thần) do đó, thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ dân sự mà lợi ích của các chủ thể sẽ đạt được.
Đặc điểm cuối cùng của nghĩa vụ quân sự đó là việc thực hiện nghĩa vụ dân sự là một loại quan hệ đối nhân (quyền đối nhân): Quan hệ đối nhân là quan hệ mà trong đó một bên chủ thể có quyền đối với một bên xác định , hoặc cả hai bên đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với nhau. Quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự vừa đối lập lại vừa có mối quan biện chứng với nhau.
Ví dụ, trên thực tế, đối với quan hệ các bên trong quan hệ hợp đòng cho vay, bên có quyền đòi nợ là người đã cho vay, bên có nghĩa vụ trả nợ là người vay nhưng cũng có thể người phải trả khoản nợ đó lại là người thứ ba (là người bảo lãnh đã được các bên xác định trước). với các đặc điểm này mà quan hệ pháp luật về nghĩa vụ được coi là loại quan hệ pháp luật tương đối. và Đồng thời cũng qua đặc điểm này, chúng ta thấy rằng quan hệ pháp luật về nghĩa vụ hoàn toàn khác với quan hệ pháp luật về sở hữu. Trong quyền sở hữu, chỉ có chủ thể mang quyền là được xác định cụ thể nên tất cả các chủ thể khác đều phải có nghĩa vụ tôn trọng các quyền dân sự của chủ thể mang quyền đó. Chủ sở hữu tự thực hiện các quyền đối với tài sản để đáp ứng các nhu cầu của mình, vì vậy quyền dân sự trong quan hệ pháp luật về sở hữu là quyền tuyệt đối theo quy định của pháp luật
2. Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự:
Có nhiều căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, theo đó tại Điều 275 Bộ luật dân sự đã liệt kê các căn cứ sau:
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự đầu tiên đó là hợp đồng dân sự. Nghĩa vụ dân sự được phát sinh khi các chủ thể thiết lập với nhau một hợp đồng dân sự và hợp đồng đó chỉ phát sinh nghĩa vụ nếu là một hợp đồng có hiệu lực (các bên giao kết hợp đồng phải tuân theo các điều kiện mà pháp luật quy định đối với mỗi bên hợp đồng.
Căn cư thứ hai đó là việc thực hiện hành vi pháp lý đơn phương. Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi thể hiện ý chí của một bên chủ thể nhằm qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Đây là một loại giao dịch dân sự, trong đó chỉ biểu hiện ý chí đơn phương của một bên, vì vậy, có làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ dân sự hay không còn phụ thuộc vào sự tiếp nhận ý chí này của những người khác (những người sẽ là chủ thể phía bên kia của giao dịch dân sự đó), hành vi pháp lý đơn phương phải là sự thể hiện ý chí không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Căn cứ thứ ba đó là việc thực hiện công việc không có ủy quyền. Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó hoàn toàn vì lợi ích của người khác khi người có công việc được thực hiện không biết hoặc biết mà phản đối.
Thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa người thực hiện công việc với người được thực hiện công việc, trong đó người được thực hiện công việc có nghĩa vụ thanh toán các chi phí hợp lí mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc đồng thời phải trả thù lao cho người thực hiện công việc.
Căn cứ thứ tư đó là việc chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật. Việc hiếm hữu, sử dụng tài sản của một người chỉ được pháp luật thừa nhận và bảo đảm nếu người đó là chủ sở hữu của tài sản hoặc là người được chủ sở hữu tài sản chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng thông qua giao dịch dân sự phù hợp với ý chí của chủ sở hữu hay người đó là người được phép chiếm hữu hay người đó là người được phép chiếm hữu, sử dụng tài sản trong các trường hợp do pháp luật. Ngoài những trường hợp này, người chiếm hữu, sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật có nghĩa vụ phải trả tài sản, bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
Thứ năm đó là xác định dựa trên hành vi gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật. Khi một người thực hiện một hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của người khác sẽ làm phát sinh một quan hệ luật dân sự trong đó người có những hành vi nói trên có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho phía bên kia (trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng)
Cuối cùng đó là các căn cứ khác do pháp luật quy định. Ngoài các căn cứ kể trên, nghĩa vụ dân sự có thể được phát sịnh trong trường hợp luật định, chẳng hạn xác lập từ một bản án, quyết định của
3. Đối tượng của nghĩa vụ dân sự:
Tại Điều 276. Đối tượng của nghĩa vụ bộ Luật dân sự 2015 quy định:
1. Đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện.
2. Đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định.
Theo đó, đối tượng của nghĩa vụ là tài sản thì tài sản là vật có thể vật hiện hữu (vật có thực) hoặc hình thành trong tương lại, có thể là động sản hoặc bất động sản, có thể là vật chia được hoặc vật không chia được, có thể là vật cùng loại hoặc vật đặc định, có thể là vật được xác định theo chủng loại hay được được xác định là vật đồng bộ. Tùy theo tính chất của từng loại tài sản cụ thể trong quan hệ dân sự mà chủ thể có thể thoải thuận để xác định nội dung của quan hệ nghĩa vụ.
Ngoài ra trong trường hợp cụ thể như đối tượng của nghĩa vụ phải được xác định thì chia ra làm đối tượng của nghĩa vụ là công việc phải làm và đối tượng của nghĩa vụ là công việc không được làm. Như vậy kết quả của công việc phải làm có thể được biểu hiện dưới một dang vật cụ thể nhưng cũng có thể không biểu hiện dưới dạng một vật cụ thể nào (các loại dịch vụ). Thông thường, các quan hệ nghĩa vụ có đối tượng là công việc phải làm thường là những quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng mang tính dịch vụ như hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gửi giữ tài sản….Bên cạnh đó công việc không được làm là đối tượng của nghĩa vụ trong trường hợp các bên từ công việc đó xác lập với nhau một quan hệ nghĩa vụ, theo đó một bên có nghĩa vụ không được thực hiện công việc theo nội dung mà các bên đã xác định.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
Bộ Luật Dân Sự 2015