Hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài. Vậy vấn đề giải quyết xung đột pháp luật về hình thức hợp đồng quốc tế theo quy định của pháp luật Việt Nam như thế nào chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu.
Mục lục bài viết
1. Khái quát chung về hình thức hợp đồng quốc tế:
Hình thức hợp đồng là một trong ba cơ sở pháp lý xác định tính hợp pháp của một hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Hình thức hợp đồng là cách thức biểu đạt sự thỏa thuận, ý chí của các bên. Do pháp luật của các nước quy định khác nhau về hình thức của hợp đồng nên đã dẫn đến xung đột pháp luật trong vấn đề này. Ví dụ: về hình thức
Không có hệ thống pháp luật nào có thể miễn trừ hoàn toán các đòi hỏi về hình thức, song việc có thừa nhận hình thức là điều kiện hiệu lực của hợp đồng hay không lại phụ thuộc cách tiếp cận vấn đề của pháp luật từng nước.
2. Giải quyết xung đột về hinh thức hợp đồng quốc tế theo pháp luật Việt Nam:
VN đặt ra yêu cầu bắt buộc về hình thức đối với một số hợp đồng nhất định mới được công nhận hiệu lực pháp lý.
Theo khoản 2, Điều 27 LTMVN 2005: “mua bán hàng hóa quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị pháp lý tương đương”. Các hình thức tương đương ở đây như: fax, điện báo, telex, …. Để giải quyết xung đột về hình thức hợp đồng, cần xác định hệ thống pháp luật được áp dụng để xem xét hiệu lực hình thức hợp đồng.
2.1. Nguyên tắc – luật nơi giao kết hợp đồng (locus regit actum):
Hiện nay nguyên tắc chung trong tư pháp quốc tế các nước đều quy định hình thức của một hợp đồng chỉ được công nhận có hiệu lực nếu nó được lập phù hợp với pháp luật nước nơi giao kết.
Theo pháp luật Việt Nam thì cũng tương tự như quy định tại Điều 9 công ước Rome 1980, BLDS VN 2005 tại Khoản 1. Điều 770 quy định: “hình thức của hợp đồng phải tuân theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng”.
Tương tự nguyên tắc này được quy định tại hiệp định tương trợ tư pháp VN-Lào 1998 (Điều 21), hiệp định tương trợ tư pháp VN-Bungari (điều 29), hiệp định tương trợ tư pháp VN-Hungari (Điều 28)….
Ví dụ: công ty A(quốc tịch Anh), và công ty B(quốc tịch VN) ký kết hợ đồng mua một lô vải lụa trị giá 3.500 USD, nơi giao kết hợp đồng là VN. Vậy hợp đồng này phải được thể hiện bằng văn bản hoặc các hình thức tương đương theo quy định tại Điều 770.Khoản 1 BLDSVN 2005 và Điều 27. Khoản 2 LTM VN 2005.
2.2. Cơ sở lý luận:
Hành vi giao kết hợp đồng là một hành vi pháp lý, nên hành vi vi này phải tuân thủ pháp luật nước nơi thực hiện hành vi. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các giao kết dân sự có yếu tố nước ngoài, phải tôn trọng pháp luật nơi thực hiện hành vi và đảm bảo cho trật tự của pháp luật quốc gia nơi thực hiện hành vi. Nguyên tắc luật nơi giao kết hợp đồng có hai tính chất:
Thứ nhất, nó có tinh bắt buộc trong trường hợp đối với một số loại hợp đồng đặc biệt đòi hỏi hợp đồng phait tuân thủ một số điều kiện nhất định mới có hiệu lực (ví dụ csc hợp đồng liên quan đến bất động sản – khoản 2.điều 770 “
Thứ hai, nó cũng mang tính chất tùy nghi, chủ yếu áp dụng đối với các loại hợp đồng mà luật không yêu cầu tuân thủ các điều kiện hình thức (như mua bán hàng hóa, giao dịch dân sự thông thường,…). Trong những trường hợp này thì hiệu lực của hợp đồng vẫn có thể được phát sinh dù cho hình thức hợp đồng không phù hợp vơi luật nơi giao kết.
“Trong trường hợp hợp đồng được giao kết ở nước ngoài mà vi phạm quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước đó, nhưng không trái với quy định về hình thức hợp đồng theo pháp luật VN, thì hình thức hợp đồng vẫn có được công nhận tại VN”.3
Từ đó ta có thể rút ra rằng, tư pháp quốc tế VN thừa nhận hiệu lực về hinht thức của một hợp đồng nếu nó đáp ứng được điều kiện của một trong hai hệ thống pháp luật nước nơi giao kết hoặc pháp luật VN.
2.3. Ngoại lệ:
Những ngoại lệ này là những trường hợp mà chúng ta không áp dụng nguyên tắc luật nơi giao kết để xác định hiệu lực hình thức hợ đồng mà luôn luôn phải áp dụng pháp luật của VN. Đó là các trường hợp sau:
Thứ nhất, hợp đồng liên quan đến việc xây dựng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công trình, nhà cửa và các bất động sản khác trên lãnh thổ VN ( theo quy định tại khoản 3, điều 770, BLDSVN 2005)
Thứ hai, hợp đồng được giao kết tại VN và thực hiện hoàn toàn tại VN thì phải tuân theo pháp luật nước CHXHCN VN (theo khoản 1 điều 769, BLDSVN 2005).
Ngoài ra thì nguyên tắc này cúng không được áp dụng trong các trường hợp giao kết vắng mặt, thông qua giao dịch điện tử.
* Hợp đồng giao kết vắng mặt (điều 771 BLDSVN 2005): ngày 1/1/2000 công ty X (vn) gửi chào hàng bán café cho công ty Y (hoa ký) qua mạng. 10/1/2000 cong ty Y nhận được chào hàng. 1/2/2000 Y gửi chấp nhận ký kết hợp đồng vô đk, đồng ý mua 100 tấn café. 3/2/2000, công ty X nhận được chấp nhận chào hàng của cty Y.
Trong hợp đồng này, bên đề nghị giao kết hđ là cty X của VN, nên việc xác định nơi giao kết hợp đồng sẽ tuân theo pl VN, hợp đồng này tuân thủ về hình thức của pl VN.
Về thời điểm giao kết hđ thì theo quy định tại điều 55 LTM 2005: “hđ mua bán hành hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng” ở đây là ngày 3/2/2000.
Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng một thông điệp dữ liệu (điều 33,