Có lập được di chúc khi bị lấy giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản. Làm thế nào để lập di chúc phần tài sản thuộc sở hữu của mình.
Có lập được di chúc khi bị lấy giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản. Làm thế nào để lập di chúc phần tài sản thuộc sở hữu của mình.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư! Tôi tên là Kiên. Ông bà nội tôi đồng sở hữu 1 căn nhà.Ông bà có 3 người con..bố tôi mất năm 2003, ông tôi mất sau năm 2008 không để lại di chúc. Bây giờ nhà còn bà tôi đã già yếu và 2 cô con gái. Bà muốn viết di chúc để lại tài sản là phần đất của bà cho tôi nhưng 1 trong 2 cô không đồng ý. Cô ấy đã lấy toàn bộ giấy tờ của bà bao gồm: Giấy chứng tử của ông tôi và bố tôi, sổ đỏ căn nhà của ông bà tôi, sổ hộ khẩu (do cô đi lấy chông nên bà tôi đã cắt tên cô trong sổ hộ khẩu), chứng minh thư nhân dân và sổ hưu của bà. Bà tôi đòi lại nhưng cô kiên quyết không trả và có thái độ không đúng mực. Bây giờ bà tôi không còn giấy tờ tùy thân nào cả. Vậy mong luật sư chỉ cho tôi phải làm các bước làm như nào và gặp cơ quan nào để lấy lại giấy tờ cho bà cũng như để bà tôi làm di chúc cho tôi./
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Thứ nhất, căn nhà thuộc quyền sở hữu chung của ông bà nên cả hai ông bà đều có quyền định đoạt đối với căn nhà và quyền định đoạt là ngang nhau. Khi ông mất đi vào năm 2008, do ông mất không có di chúc nên phần di sản của ông được chia theo pháp luật. Theo đó, phần di sản được chia đều cho tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm: bà, bố bạn, hai cô con gái. Theo đó, mỗi người đều có quyền định đoạt ngang nhau đối với phần di sản của ông để lại.
Tuy nhiên, bố bạn là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất nhưng lại mất trước khi ông mất nên phần di sản của ông để lại cho bố bạn được thừa kế thế vị theo Điều 677 Bộ luật dân sự 2005:
“Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”
Như vậy, khi bố bạn mất trước khi ông mất thì phần di sản mà ông để lại cho bố bạn sẽ do bạn và anh chị em bạn (nếu có) được hưởng.
Thứ hai, khi bà bạn muốn lập di chúc cho bạn hưởng toàn bộ di sản của bà thì theo quy định của pháp luật về thừa kế thì bà bạn hoàn toàn có quyền viết di chúc để lại di sản cho bạn nếu đáp ứng đủ các điều kiện về di chúc như nội dung, hình thức của di chúc quy định tại Bộ luật dân sự 2005.
Cụ thể, điều kiện lập di chúc như sau: Căn cứ khoản 1 Điều 647 Bộ luật dân sự 2005 quy định:
“1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.”
Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế; chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản căn cứ Điều 648 Bộ luật dân sự 2005.
Và Điều 652 Bộ luật dân sự 2005 quy định về điều kiện để di chúc hợp pháp:
‘‘1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.’’
Thủ tục lập di chúc được quy định như sau:
Căn cứ Bộ luật dân sự 2005, di chúc có các hình thức sau: di chúc bằng văn bản, di chúc miệng.
Di chúc bằng văn bản có các loại sau: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực.
Điều 653 Bộ luật dân sự 2005 quy định về nội dung của di chúc như sau:
“1. Di chúc phải ghi rõ:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản;
đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.”
Thứ ba, về việc yêu cầu trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện nay theo quy định của pháp luật dân sự và nghị định có liên quan, cụ thể tại Điều 163 Bộ luật dân sự 2005, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là một loại giấy tờ có giá. Vì vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là một loại tài sản theo quy định của pháp luật dân sư. Cho nên khi có yêu cầu về quyền kiện đòi tài sản là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án sẽ không thụ lý giải quyết.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật điều kiện có hiệu lực của di chúc: 1900.6568
Điều 2 của Công văn 141/TANDTC-KHXX về “Thẩm quyền giải quyết yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản”cũng làm rõ việc quy định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” không phải là tài sản. Cụ thể là:
“2. Theo các quy định trên đây thì các giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy; Giấy đăng ký xe ô tô…) không phải là “giấy tờ có giá” quy định tại Điều 163 của Bộ luật dân sự năm 2005; do đó, nếu có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì Tòa án không thụ lý giải quyết.”
Như vậy, bà bạn có thể lập bản di chúc theo ý chí của bà bạn theo một trong các hình thức nêu trên mà không bắt buộc phải đòi lại giấy tờ mới có thể lập được di chúc. Các giấy tờ mà hai cô bạn giữ có ý nghĩa khi làm thủ tục khai nhận di sản thừa kế.