Khách hàng cung cấp thông tin sai hợp đồng có vô hiệu không? Khi nào hợp đồng tín dụng vô hiệu?
Khách hàng cung cấp thông tin sai hợp đồng có vô hiệu không? Khi nào hợp đồng tín dụng vô hiệu?
Tóm tắt câu hỏi:
Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định:
Chấm dứt cấp tín dụng, xử lý nợ, miễn, giảm lãi suất
1. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng.
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 95 thì trong trường hợp trên hợp đồng tín dụng có bị xem là vô hiệu không? Vì sao ?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
Luật các tổ chức tín dụng 2010
2. Nội dung tư vấn:
Trong trường hợp này của bạn, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Hợp đồng tín dụng vô hiệu khi thoả mãn các điều kiện để giao dịch dân sự vô hiệu quy định từ Điều 127 đến Điều 138 Bộ luật dân sự 2005.
Khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định như sau:
1. Tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng.
Căn cứ vào Điều 132 Bộ luật dân sự 2005 quy định giao dịch dân sự bị vô hiệu do bị lừa dối như sau:
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.
Trong trường hợp này, khi khách hàng cung cấp sai thông tin chủ thể hợp đồng như chủ thể không có quyền ký kết hợp đồng, đối tượng của hợp đồng không thực hiện được hoặc nội dung trong hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; mà một bên trong hợp đồng có yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng bị coi là vô hiệu. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng 2010 quy định quyền của tổ chức tín dụng có quyền chấm dứt việc cấp tín dụng, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm các quy định trong hợp đồng cấp tín dụng là điều kiện để tổ chức tín dụng đơn phương chấm dứt hợp đồng tín dụng trước thời hạn.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
Căn cứ vào Điều 426 Bộ luật dân sự 2005 quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dân sự như sau:
1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán.
4. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp này của bạn thì do pháp luật đã quy định quyền của tổ chức tín dụng khi mà khách hàng cung cấp sai thông tin, vi phạm hợp đồng thì tổ chức tín dụng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng trừ khi một bên trong hợp đồng yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối do chủ thể ký hợp đồng không có thẩm quyền hoặc đối tượng của hợp đồng không thực hiện được hoặc nội dung trong hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội.