Bạn nhờ đứng tên xe nhưng không biết là xe ăn trộm. Đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe nhưng không biết đó là xe ăn trộm có phạm tội không?
Bạn nhờ đứng tên xe nhưng không biết là xe ăn trộm. Đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe nhưng không biết đó là xe ăn trộm có phạm tội không?
Tóm tắt câu hỏi:
Văn phòng luật sư cho em hỏi, cách đây khoảng 2 tháng em có đứng tên dùm chiếc xe máy cho một người bạn nhưng em không biết xe đó là xe gian. Mặc dù đứng tên em nhưng sự thật xe đó không phải là của em. Vậy em phải làm sao? Cảm ơn luật sư!
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.
2. Luật sư tư vấn:
Theo như bạn trình bày bạn có đứng tên dùmchiếc xe máy cho một người bạn. Khi bạn đứng tên bạn không trình bày rõ là mình có hợp đồng ủy quyền với người bạn này hay không trong trường hợp bạn giao kết hợp đồng ủy quyền theo quy định tại Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:
"Điều 581. Hợp đồng ủy quyền
Hợp đồng ủy quyền là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, còn bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định."
Trong trường hợp này khi bạn giao kết với bạn của bạn về hợp đồng ủy quyền hoặc có người làm chứng là bạn đứng tên hộ nhưng bạn không biết tài sản này do trộm cắp mà có.
Căn cứ theo quy định tại Điều 250 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì:
"Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".
>>> Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua tổng đài: 1900.6568
Mặt khách quan của hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản mà biết rõ là do người khác phạm tội mà có, được hiểu là tài sản đang được một người chiếm hữu không hợp pháp và tài sản đó là đối tượng của tội phạm mà họ thực hiện trước đó như tội tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự hoặc tội phạm khác thuộc nhóm tội chiếm đoạt tài sản.
Bên cạnh đó, hành vi phạm tội tiêu thụ tài sản chỉ cấu thành tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khi không có sự hứa hẹn trước. Nếu có sự hứa hẹn trước sẽ tiêu thụ, thu mua tài sản trộm cắp thì hành vi của người tiêu thụ là hành vi của một đồng phạm với tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Nếu như người có hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản nhưng không hề biết tài sản mình mua là do trộm cắp mà có thì trường hợp này chỉ là một giao dịch dân sự thông thường hợp đồng ủy quyền như trên đã phân tích, hành vi của bạn không phải là hành vi phạm tội.