Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là gì? Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm Tiếng Anh là gì? Tính chất kháng nghị giám đốc thẩm ? Quy định về kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS 2015 Một số bất cập đối với quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm?
Kháng nghị là một trong những quyền của cơ quan có thẩm quyền nhà nước thể hiện việc phản đối một phần hoặc toàn bộ bản án của Tòa án. Trong tố tụng hình sự, kháng nghị có thể được thực hiện theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Trong bài viết dưới đây, Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin pháp lý liên quan đến quy định kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự:
Căn cứ pháp lý:
–
1. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm là gì?
Kháng nghị là hành vi tố tụng của người có thẩm quyền, thể hiện việc phản đối toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định của Tòa án với mục đích bảo đảm cho việc xét xử được chính xác, công bằng, đồng thời sửa chữa những sai lầm trong bản án, quyết định của Tòa án. Kháng nghị có thể được thực hiện theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm hoặc giám đốc thẩm.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 27 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật.”.
Căn cứ theo điều 370 BLTTHS 2015: “Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án”.
Như vậy có thể hiểu: Quyết định kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm là hành vi tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhà nước thể hiện việc phản đối một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ kháng nghị theo quy định.
2. Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm Tiếng Anh là gì?
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm Tiếng Anh là: “Decision to lodge protests through the cassation procedure”
3. Tính chất kháng nghị giám đốc thẩm.
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Tính chất của kháng nghị giám đốc thẩm xuất phát từ mục đích đảm bảo quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân Việt Nam. Một người được coi là không có tội cho đến khi tòa án kết luận có tội bằng một bản án. Pháp luật Việt Nam luôn đảm bảo sự khách quan, công bằng, tôn trong sự thật và xét xử đúng người, đúng tội.
4. Quy định về kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS 2015.
4.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.
Điều 372 BLTTHS 2015 quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm với nội dung như sau:
Điều 371. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong các căn cứ:
1. Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
2. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án;
3. Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Như vậy, vụ án hình sự sẽ được xem xét kháng nghị giám đốc thẩm khi thuộc một trong ba trường hợp:
– Có căn cứ cho rằng kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án
Một trong những nguyên tắc hoạt động của tòa án là xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc độc lập của Tòa án không cho phép bất kỳ một chủ thể nào được can thiệp một cách vô cớ hay không thỏa đáng vào quá trình xét xử. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên có quyền xem xét lại bản án của tòa cấp dưới trực tiếp nếu có căn cứ cho rằng kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án
– Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án
Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được hiểu là trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án
– Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật việc cơ quan, người tiến hành tố tụng áp dụng không đúng hoặc trái quy định của các văn bản pháp luật hiện hành.
4.2. Những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Căn cứ theo Điều 373 BLTTHS 2015, những người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm gồm:
1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án quân sự trung ương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực.
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ.
Như vậy, quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thuộc về cơ quan cấp trên trực tiếp đối với việc áp dụng pháp luật trong giải quyết vụ án hình sự của cơ quan cáp dưới. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm dựa trên căn cứ, điều kiện kháng nghị (Điều 326 Bộ luật tố dụng dân sự năm 2015) và các quy định pháp luật khác liên quan, xem xét đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Phương thức này giúp cho mỗi một cơ quan tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự đảm bảo thực hiện việc áp dụng pháp luật một cách thận trọng, công bằng, liêm chính.
4.3. Nội dung quyết định kháng nghị Giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 378 BLTTHS 2015, quyết định kháng nghị giám đốc thẩm có các nội dung chính như sau:
” 1. Số, ngày, tháng, năm của quyết định;
2. Người có thẩm quyền ra quyết định;
3. Số, ngày, tháng, năm của bản án, quyết định bị kháng nghị;
4. Nhận xét, phân tích những vi phạm pháp luật, sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị;
5. Căn cứ pháp luật để quyết định kháng nghị;
6. Quyết định kháng nghị toàn bộ hay một phần bản án, quyết định;
7. Tên của Tòa án có thẩm quyền giám đốc thẩm vụ án;
8. Yêu cầu của người kháng nghị”
4.4. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
Điều 379. Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, cả trong trường hợp người bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự đối với đương sự được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
4. Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì người có quyền kháng nghị phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã kiến nghị biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
5. Một số bất cập đối với quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
– Trước khi nói về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, ở ngay việc xác định đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm chúng ta đã thấy sự bất cập ở đây.
Tại Điều 370 BLTTHS 2015 đã chỉ rõ ” Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” . Việc coi tất cả các quyết định của Tòa án đều là đối tượng của giám đốc thẩm có thể dẫn đến tình trạng kháng nghị tràn lan, không phù hợp với bản chất và mục đích của thủ tục giám đốc thẩm.
– Về quy định căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm:
+ Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án
Bộ luật TTHS hiện hành chưa quy định cụ thể hoặc hướng dẫn thế nào là “không phù hợp với tình tiết khách quan”. Việc đánh giá vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mang tính chủ quan, phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm của các chủ thể có thẩm quyền
+ Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Việc sử dụng thuật ngữ “thủ tục tố tụng” không bao hàm hết những vi phạm pháp luật TTHS trong quá trình chứng minh tội phạm bởi vì ngoài thủ tục tố tụng, luật TTHS còn quy định khác về những nguyên tắc của TTHS, những quy định chung, thẩm quyền.
+ Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. Phạm vi của căn cứ này là quá rộng vì “quy định của pháp luật” đã bao hàm tất cả các quy định trong các bộ luật, các luật, thông tư, hướng dẫn… khác nhau, bao hàm cả hai căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm nêu trên và các căn cứ kháng nghị tái thẩm
Trên đây là một số thông tin pháp lý liên quan đến kháng nghị giám đốc thẩm và một số những bất cập trong quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm được đưa ra bởi Luật Dương Gia. Nếu có thắc mắc về vấn đề pháp lý này hoặc có bất cứ vấn đề pháp luật gì cần được tư vấn, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Hotline: 1900.6568 để được tư vấn – hỗ trợ!