Giải quyết tranh chấp tài sản khi không đăng ký kết hôn. Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp tài sản khi không kết hôn?
Tóm tắt câu hỏi:
Vào năm 1987 tôi và chồng tôi có tổ chức đám cưới (không có đăng ký kết hôn), đến năm 1989 chúng tôi có sinh một đứa con tên là Hồ Ngọc Huyền, trong thời gian chung sống vợ chồng, cha mẹ 2 bên có cho chúng tôi 6 công đất ruộng (6.000m²), lúc đó cha mẹ tôi cho 03 công (3.000m²), cha mẹ chồng cho 03 công (3.000m²); tại thời điểm đó, 2 vợ chồng thống nhất cho chồng tôi đứng tên Quyền sử dụng đất; cả cha, mẹ 2 bên đều đồng ý và hai thửa đất ở hai vị trí khác nhau. Trong thời gian chung sống, 2 vợ chồng bất đồng không hợp nhau, đến năm 1993 chúng tôi đã quyết định ly thân không sống chung với nhau cho tới nay. Lúc đó chúng tôi thỏa thuận với nhau mỗi bên canh tác và sử dụng 3 công (3.000m²) của cha mẹ mỗi bên đã cho từ trước, còn con tôi là Hồ Ngọc Huyền còn nhỏ phải chung sống với tôi cho đến nay. Và cũng từ đó anh không quan tâm, chăm sóc, hỗ trợ tiền phụ giúp tôi trong quá trình nuôi con làm cho tôi vất vả, khó khăn trong cuộc sống- Sau khi ly hôn, tôi đã nhiều lần đến gặp anh để yêu cầu đến Ủy Ban nhân dân xã tách Quyền sử dụng đất cho tôi, nhưng anh không đồng ý trái lại còn chửi và nặng nhẹ mẹ con tôi.- Quá bức xúc với thái độ của anh đã đối xử với mẹ con tôi, đến ngày 24/04/2010 tôi đã viết đơn tường trình sự việc gửi đến Ủy Ban nhân dân xã nhờ các cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết, lúc đó cán bộ tư pháp xã có gặp và làm việc với anh, thì anh hứa là chờ thu hoạch vụ lúa hè thu năm 2010 xong, thì anh sẽ trả tiền cho ngân hàng để lấy giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất về, và đưa cho tôi đến Ủy Ban nhân dân xã tách Quyền sử dụng đất ra (có bản cam kết kèm theo), vì lúc đó giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất anh đã vay và thế chấp cho ngân hàng.
– Đến ngày 18/02/2013, tôi có làm đơn khiếu nại gửi đến Ủy Ban nhân dân xã yêu cầu giải quyết cho tôi, nhưng đến nay lời hứa của anh đối với tôi và cán bộ tư pháp xã vẫn không được thực hiện.
– Đến ngày 24/02/2015, tôi tiếp tục làm đơn tố cáo anh gửi đến Đảng Bộ, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban nhân dân xã; đã có hành vi cố tình chiếm dụng Quyền sử dụng đất của tôi không có ý trả lại từ khi 2 vợ chồng ly thân và ly hôn cho tới nay. (Hiện nay cuộc sống của anh cũng khó khăn không có khả năng trả nợ cho ngân hàng anh đã vay 35.000.000đ và thế chấp giấy chứng nhận QSD đất cho ngân hàng, trong lúc chúng tôi ly thân không sống chung với nhau chỉ vay có 3.000.000đ).
– Đến ngày 02/08/2015, tôi tiếp tục làm đơn gửi đến Đảng Bộ, Hội Đồng Nhân Dân, Ủy Ban nhân dân xã;- Đã nhiều năm trôi qua mà quyền lợi cá nhân của tôi chưa được Ủy Ban nhân dân xã và các cấp có thẩm quyền cũng như anh giải quyết thỏa đáng cho tôi, từ đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi và cuộc sống của 2 mẹ con tôi, trong lúc này mẹ con tôi đang làm thuê tại TPHCM và gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Trong trường hợp này tôi phải làm gì? Cơ quan nào giải quyết cho tôi? Tôi có kiện anh ra tòa án được không? Vì đã có hành vi cố tình chiếm dụng Quyền sử dụng đất của tôi không có ý trả lại và lấy tài sản của tôi đi vay và thế chấp cho ngân hàng mà tôi không hay biết. Nếu được tôi có quyền yêu cầu tiền trợ cấp dưỡng và quyền thừa kế tài sản của con tôi không? Mức đóng án phí tại tòa là bao nhiêu? Tôi xin trân thành cảm ơn.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Thứ nhất, hai bạn chung sống với nhau từ năm 1987, tài sản có được từ thời điểm sau khi tổ chức đám cưới. Hai bên tự thỏa thuận với nhau về việc sử dụng khối tài sản này mà không yêu cầu tòa án giải quyết.
Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10
“3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:
a)Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 1 năm 1987,ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thìđược khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì đượcTòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đìnhnăm 2000;
b)Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 1 năm 1987 đến ngày01 tháng 1 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thìcó nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệulực cho đến ngày 01 tháng 1 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.
Từ sau ngày 01 tháng 1 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;
c)Kể từ ngày 01 tháng 1 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng;nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Như vậy, trước tiên sẽ khẳng định quan hệ hôn nhân giữa bạn và chồng bạn là quan hệ mà pháp luật không công nhận quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên chế độ tài sản sẽ vẫn được giải quyết nếu có yêu cầu.
Thứ hai: Xác định tài sản chung và riêng của hai vợ chồng bạn:
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
“Điều 14
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung.
Điều 15
Tài sản chung được sử dụng để bảo đảm những nhu cầu chung của gia đình.
Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua bán, đổi, cho, vay, mượn, và những giao dịch khác có quan hệ đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả thuận của vợ, chồng.”
Như vậy, tại thời điểm năm 1987 sau khi kết hôn xong thì hai bên được cho tài sản chung là đất đai, cùng sử dụng thì đây là tài sản chung của hai vợ chồng.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Thứ ba: Đến thời điểm hiện nay khi có tranh chấp tài sản bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo đó quy định tại Luật hôn nhân gia đình 2014
“Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.
…
Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn
1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.”
Như vậy, bạn đã làm đơn yêu cầu nhiều lần nhưng vẫn chưa được giải quyết thì bạn sẽ làm đơn yêu cầu giải quyết về phân chia tài sản lên Tòa án nhân dân cấp quận huyện để yêu cầu giải quyết. Nếu trường hợp bạn yêu cầu thì phải nộp lên Tòa án huyện nơi mà chồng bạn đang cứ trú theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011.
Thứ tư: Theo quy định của Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án 2009
2. Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp dân sự có giá ngạch:
Giá trị tài sản có tranh chấp | Mức án phí |
a) từ 4.000.000 đồng trở xuống | 200.000 đồng |
b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng | 5% giá trị tài sản có tranh chấp |
c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng | 20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng |
d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng | 36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng |
đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng | 72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng |
e) Từ trên 4.000.000.000 đồng | 112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng. |