Muốn giành được quyền nuôi con thì phải làm như thế nào? Nếu hai vợ chồng ly hôn thì tôi có quyền nuôi con không? Cách để có quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn? Quyền nuôi con khi vợ bỏ đi với người khác? Điều kiện kinh tế để tranh chấp quyền nuôi con?
Tóm tắt câu hỏi:
Chào các luật sư, tôi đã lập gia đình được 3 năm nhưng vợ chồng luôn bất hòa, nhiều lần cãi nhau thì chồng luôn xúc phạm tới bố mẹ tôi, mắng nhiếc tôi đủ thứ, tôi thấy áp lực và đôi khi sợ hãi. Giờ tôi muốn ly hôn nhưng không biết phải làm thế nào để giành được quyền nuôi con.Vợ chồng tôi có 1 bé gái hơn 2 tuổi. Tôi rất mong các luật gia tư vấn giúp tôi sớm nhất có thể!
Luật sư tư vấn:
Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 81
Khoản 3 Điều 82
“Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”
Theo quy định trên thì sau khi ly hôn, con bạn sẽ được giao trực tiếp cho bạn nuôi nhưng nếu chồng bạn có đủ căn cứ chứng minh bạn không có điều kiện chăm sóc và giáo dục con tốt, cho con được phát triển cả về thể chất và tinh thần thì chồng bạn sẽ giành được quyền nuôi con.
Luật sư tư vấn ly hôn trực tuyến qua tổng đài điện thoại:1900.6568
Bạn có thể tham khảo thêm quy định về một số trường hợp tòa án có thể ra quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Nội dung này được quy định cụ thể tại Điều 84
“1. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều này, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên.
4. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ theo quy định của Bộ luật dân sự.
5. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con:
a) Người thân thích;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ.”
Mục lục bài viết
- 1 1. Muốn giành được quyền nuôi con thì phải làm như thế nào?
- 2 2. Nếu hai vợ chồng ly hôn thì tôi có quyền nuôi con không?
- 3 3. Cách để có quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
- 4 4. Quyền nuôi con khi vợ bỏ đi với người khác
- 5 5. Cần tài liệu chứng minh gì để có quyền nuôi cả hai con?
- 6 6. Không chịu giao con theo quyết định của Tòa phải làm sao?
- 7 7. Tranh chấp quyền nuôi con theo quy định hiện hành
- 8 8. Điều kiện kinh tế để tranh chấp quyền nuôi con
1. Muốn giành được quyền nuôi con thì phải làm như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin luật sư tư vấn giúp em về vấn đề luật hôn nhân và gia đình. Em có một người chị đang ra tòa li hôn nhưng do gia đình khó khăn không thể thuê luật sư được. Chồng chị ấy có bồ ở ngoài và anh ta dành quyền nuôi con với chị ấy. Bây giờ em muốn hỏi là để chị em giành được quyền nuôi con thì phải làm như thế nào ạ. Xin luật sư tư vấn giúp.
Luật sư tư vấn:
Dựa vào những thông tin mà bạn cung cấp thì, Luật sư có thể tư vấn cho bạn theo hướng như sau:
Trường hợp con của chị bạn dưới 3 tuổi thì chị bạn hoàn toàn giành được quyền nuôi con như theo quy định của pháp luật.
Trường hợp con của chị bạn trên 3 tuổi mà giữa chị bạn và chồng có xảy ra tranh chấp về quyền nuôi con thì chị bạn cần chứng minh điều kiện nuôi con của mình tốt hơn của chồng. Cụ thể: điều kiện tốt hơn về tài sản, thu nhập, công việc, chăm sóc nuôi dưỡng con tốt hơn… Căn cứ vào đó, tòa án sẽ xem xét để giao cho chị của bạn quyền nuôi con.
Nếu con của chị bạn đử 9 tuổi trở lên thì tòa án sẽ xem xét nguyện vọng của cháu để đưa ra quyết định.
Điều 81
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.
2. Nếu hai vợ chồng ly hôn thì tôi có quyền nuôi con không?
Tóm tắt câu hỏi:
Hiện tại tôi và vợ có một con năm nay là 30 tháng tuổi. Tôi muốn hỏi nếu hai vợ chồng ly hôn thì tôi có quyền nuôi con không. Làm thế nào để tôi có thể nuôi cháu.
Tôi xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Theo Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 :
“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Theo bạn nói, con bạn mới 30 tháng tuổi. Như vậy, theo quy định của pháp luật, quyền nuôi con sẽ thuộc về người mẹ. Tuy nhiên, nếu vợ bạn không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc giữa vợ chồng bạn có thỏa thuận khác thì bạn vẫn có quyền nuôi con.
Theo đó, nếu bạn muốn nuôi con, bạn cần đảm bảo một trong hai yếu tố kể trên.
Thứ nhất, chứng minh việc vợ bạn không có đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Con dưới 36 tháng tuổi rất cần sự chăm sóc của người mẹ, tuy nhiên nếu người mẹ không có đủ điều kiện để chăm sóc con, không đảm bảo quyền lợi của con thì quyền nuôi con có thể thuộc về người cha.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, bạn cần phải chứng minh việc vợ bạn không có đủ điều kiện để chăm sóc cho con. Đồng thời, bạn cần chứng minh mình có đủ khả năng, điều kiện để chăm sóc tốt cho cháu. Khi đấy, tòa án sẽ căn cứ vào đấy để ra quyết định phù hợp, sao cho đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho trẻ em.
Thứ hai, Hai vợ chồng có thỏa thuận khác.
Trường hợp giữa hai người có thỏa thuận được về việc nuôi con, thì bạn có thể có quyền nuôi con. Tuy nhiên, việc thỏa thuận này vẫn phải đảm bảo quyền lợi cho con bạn. Khi đấy, Tòa án sẽ căn cứ vào tình hình thực tế của hai vợ chồng bạn để quyết định. Dù rằng vợ bạn đồng ý cho bạn nuôi, nhưng khi bạn nuôi lại ảnh hưởng đến lợi ích của con bạn thì pháp luật cũng không cho phép bạn nuôi mà vẫn để quyền nuôi con thuộc về người mẹ.
Do đó, trường hợp giữa hai người có thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, bạn cần chú ý phải làm sao đảm bảo được quyền lợi của con bạn một cách tốt nhất. Khi đó, bạn có thể thực hiện quyền nuôi con của mình.
3. Cách để có quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi lấy vợ được 5 năm đã có 2 con, một con 4 tuổi, một con 1 tuổi. Thời gian gần đây do mâu thuẫn giữa bố mẹ chồng và con dâu, đến thời điểm này thì mâu thuẫn đó quá lớn không thể cứu vãn được nữa, vợ tôi đòi ly hôn. Tôi hỏi là khi ly hôn thì tôi muốn mình được quyền nuôi con, vậy tôi làm sao để được quyền đó.
Luật sư tư vấn:
Thường thì khi ly hôn, người mẹ hoặc người cha luôn muốn giành quyền nuôi tất cả con. Tuy nhiên trên thực tế toà thường giao cho mỗi người nuôi 1 con, trừ trường hợp cha hoặc mẹ hoặc cả 2 rơi vào trường hợp bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên (Theo quy định tại Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).
Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định:
“Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Theo quy định này, đối với người con 1 tuổi của bạn thuộc trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 81
Tuy nhiên, nếu bạn muốn giành được quyền nuôi cả 2 con, trước tiên bạn nên thỏa thuận với vợ trước thời điểm nộp đơn ly hôn, nếu thỏa thuận không như mong muốn của bạn, bạn cần phải chứng minh vợ mình không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và bạn thì có khả năng làm tốt việc đó.
Bạn có thể trình bày và đưa ra tòa những căn cứ về điều kiện vật chất (như việc ăn ở, sinh hoạt, học tập…) và các điều kiện về tinh thần (thời gian dành cho con, điều kiện vui chơi, giải trí…) mà bạn có thể làm cho con. Để chứng minh cho những điều kiện này bạn có thể đưa ra mức thu nhập, tài sản của bản thân. Cùng với đó, bạn có thể đưa ra những căn cứ chứng minh người mẹ không có đủ điều kiện nuôi con, có thể là lơ đãng việc chăm con, tình trạng thu nhập, thời gian chăm sóc con…
4. Quyền nuôi con khi vợ bỏ đi với người khác
Tóm tắt câu hỏi:
Anh trai tôi kết hôn được hơn hai năm và sinh được một cháu gái tới nay là được 36 tháng tuổi nhưng chị dâu tôi ôm con bỏ đi theo trai tới nay là được ba năm. Anh trai tôi làm đơn ly hôn vậy tôi muốn hỏi luật sư anh tôi có được quyền nuôi con hay không?
Luật sư tư vấn:
Trong trường hợp anh bạn có đơn yêu cầu ly hôn thì quyền nuôi con trước hết sẽ căn cứ vào sự thỏa thuận của anh bạn và chị dâu bạn. Theo quy định tại Điều 81 Luật hôn và nhân gia đình 2014:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Do chị dâu bạn đã ôm con bỏ đi 3 năm tính đến nay nên chị dâu bạn sẽ không thuộc trường hợp được hưởng quyền trực tiếp nuôi con theo quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đối với con dưới 36 tháng tuổi.
Trong trường hợp này, nếu anh chị và chị dâu chị không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con như quyền lợi về vật chất và quyền lợi về tinh thần để đảm bảo tốt nhất cho con. Để được quyền nuôi con anh bạn cần chứng minh với Tòa án về khả năng có thể nuôi dưỡng, chăm sóc con như: ăn, ở, học tập, điều kiện chỗ ở, điều kiện sức khỏe.
Ngoài ra, anh bạn có thể thực hiện việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn khi có một trong các căn cứ tại Khoản 2 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014:
“2. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau đây:
a) Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con;
b) Người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.”
Do đó, nếu anh có căn cứ chứng minh chị dâu bạn không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh bạn hoàn toàn có thể giành quyền nuôi con sau khi ly hôn.
5. Cần tài liệu chứng minh gì để có quyền nuôi cả hai con?
Tóm tắt câu hỏi:
Kính gửi Luật sư: Tôi và chồng tôi kết hôn vào tháng 3/2013. Quá trình chung sống từ đó đến nay, chúng tôi không tìm được điểm hòa hợp mà chỉ thấy trái ngược nhau về mọi mặt, từ quan điểm sống, nhận thức, tư duy, sở thích. Những bất đồng trên khiến vợ chồng tôi thường xuyên cãi vã. Một số lần xung đột, chồng tôi còn đánh tôi dù rằng tôi đang bế con.
Về con cái: Chúng tôi có 2 con chung, bé gái lớn 29 tháng, bé trai nhỏ 6 tháng. Về tài sản: –
Tài sản chung: 1 ngôi nhà cấp 4 được xây trên lô đất 60m2 mua theo diện quân nhân sau kết hôn và các tài sản khác phục vụ sinh hoạt. Để có tài sản này, chúng tôi phải chi khoảng 320 triệu.
– Tài sản riêng:
+ Tài sản của chồng: Chiếc xe máy chồng tôi đang sử dụng: Tuy được mua trước khi kết hôn nhưng do chồng tôi mua nợ, đến khi sinh con đầu lòng (tháng 11/2013) mới hết nợ.
+ Tài sản của vợ gồm có: 1 chiếc xe máy tôi hiện đang sử dụng, mua trước kết hôn; 4 gian nhà trọ cấp 4 trên 1 lô đất 74m2 do bố mẹ tôi chia cho từ phần tài sản của bố mẹ từ trước khi kết hôn, hiện bố mẹ đẻ tôi đang trông nom giúp vì được tách ra từ phần đất bố mẹ tôi đang sinh sống. Về công việc: Chồng tôi là bộ đội, lái xe thường xuyên phải công tác đột xuất. Còn tôi là công an, làm việc theo giờ hành chính;
Về thu nhập: Chồng tôi thu nhập 6 triệu/tháng từ lương; tôi thu nhập từ lương 9 triệu/tháng và thu nhập từ nhà trọ cho thuê trên phần tài sản riêng khoảng 3 triệu/tháng (tổng là khoảng 12 triệu/tháng) Về công nợ: Hiện chúng tôi còn nợ 70 triệu trong đó 60 triệu tiền mua nhà và đất và 10 triệu khám chữa bệnh cho con do chồng tôi ít đưa tiền sinh hoạt phí.
Về sinh hoạt:
– Các ngày nghỉ làm do chế độ đẻ, ngày lễ tết, cuối tuần, chúng tôi thường sinh hoạt tại ngôi nhà chung vì nhà này gần nơi chồng tôi công tác. Còn các ngày đi làm, chúng tôi sang bên ngoại để tiện tôi vừa công tác vừa có thể chăm sóc tốt cho vì bên đó điều kiện chăm sóc tốt hơn, gần nơi công tác và cũng là nơi tôi và các cháu đăng ký hộ khẩu, tiện cho việc học tập của các cháu sau này.
– Sinh hoạt phí của gia đình: trong thời gian từ kết hôn đến khi sinh con, chồng tôi không đưa lương hàng tháng mà để trả nợ xe máy, chúng tôi sống bằng tiền lương của tôi và các thu các khoản đồng nghiệp nợ của tôi từ trước khi kết hôn. Khi mua nhà, chồng tôi có đưa 20 triệu là các khoản thu ngoài lương của chồng. Sau khi sinh con đầu tiên đến thời điểm chồng tôi còn ở đội xe, chồng tôi có đưa tiền sinh hoạt phí hàng tháng, chúng tôi đã tích cóp trả dần được 1 phần công nợ. Xét về đóng góp, có thể coi thời gian từ khi kết hôn đến trước khi chồng tôi lên ban xe, chồng tôi có trách nhiệm với gia đình. Còn từ sau khi lên ban xe, chồng tôi không đưa sinh hoạt phí nữa.
Nhiều lúc đi làm về chồng tôi thường than: Tiền lo sơn xe, sửa xe, ủng hộ việc nọ, quỹ kia, phải tạm ứng tiền công tác… Tôi vướng bận con cái không thể đi chợ, các thu nhập của tôi đều đưa cho chồng để chi tiêu nhưng không để ra được đồng nào để trả nợ ngoài việc lắp 1 chiếc điều hòa. Riêng việc mua TV là khoản tiền chế độ đẻ. Tôi biết, chồng tôi còn dùng số tiền này để đánh bạc vì đã có người nhắn tin đòi nợ tiền đánh đề đến máy điện thoại của chồng tôi mà tôi vô tình bắt được.
Về điều kiện chăm sóc con cái: Chồng tôi thường xuyên công tác đột xuất, chế độ quân nhân phải thường xuyên ứng trực tại đơn vị, bố mẹ chồng ở xa không thể hỗ trợ. Việc chăm sóc, dạy dỗ con cái không thể được như tôi, nhất là những lúc chồng tôi đi công tác, nếu con tôi được chồng nuôi thì sẽ không thể chăm sóc con cái khi đó. Ngược lại, tôi có nhiều điều kiện để chăm sóc con cái tốt hơn chồng (Có ông bà ngoại hỗ trợ, có thời gan, kinh tế… Nơi học tập của các cháu sau này cũng gần nơi tôi công tác).
Về nhân phẩm, tư cách: Chồng tôi là 1 người bạo lực, anh đánh tôi nhiều lần. Nếu cuộc sống hôn nhân vẫn tiếp tục duy trì sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của tôi. Bên cạnh đó, chồng tôi là 1 người cờ bạc (đánh đề qua nhắn tin điện thoại). Chính vì đề đóm, anh hạn chế đóng góp sinh hoạt phí, việc trang trải nợ nần nhà cửa, sinh hoạt và chữa trị lúc con cái ốm đau phần nhiều cho tôi. Nếu để anh nuôi con, bản tính côn đồ và đam mê cờ bạc ảnh hưởng trực tiếp đến hình thành nhân cách và điều kiện vật chất của con.
Về tài sản chung, chồng tôi muốn chia đôi. Về con cái, chồng tôi muốn nuôi cháu lớn. Còn với tôi, tôi muốn được nuôi cả 2 con vì không yên tâm khi con tôi sống với người có nhân phẩm tư cách như chồng tôi. Về tài sản, tôi muốn được phân chia theo tỷ lệ đóng góp cho gia đình. Với điều kiện, hoàn cảnh của tôi ở trên, tôi muốn toàn quyền nuôi 2 con, tôi cần phải thu thập tài liệu gì và làm gì để tòa án xét cho tôi nuôi 2 con và đảm bảo các quyền lợi khác cho tôi và các cháu? Trân trọng cám ơn Luật sư.
Luật sư tư vấn:
Đối với tài sản chung: ngôi nhà cấp 4:
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
“Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Như vậy theo như thông tin bạn cung cấp và theo như căn cứ nêu trên thì ngôi nhà cấp 4 này được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, vì thế, khi ly hôn thì ngôi nhà sẽ được xác định là tài sản chung và được phân chia. Khi phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn có xem xét đến công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Như vậy, khi chia giá trị ngôi nhà, bạn cũng sẽ được thanh toán phần mình có công sức trong việc sữa chữa, làm tăng giá trị của tài sản này lên.
Đối với tài sản riêng của chồng: chiếc xe máy chồng bạn đang sử dụng được mua trước khi kết hôn và đến khi sinh con đầu long mới trả hết nợ:
Theo quy định tại khoản 4 điều 59 Luật hôn nhân và gia đình có quy định về nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn:
“4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác”.
Trong trường hợp này của bạn thì chiếc xe máy là tài sản riêng của chồng bạn nên về nguyên tắc nó sẽ thuộc về chồng bạn mà bạn không được quyền yêu cầu chia. Tuy nhiên, dựa vào thông tin bạn cung cấp thì theo quy định của pháp luật thì bạn vẫn có quyền yêu cầu thanh toán giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó.
Đối với tài sản riêng của vợ: 1 chiếc xe máy bạn hiện đang sử dụng, được mua trước khi kết hôn và 4 gian nhà trọ cấp 4 trên 1 lô đất 74m2 do bố mẹ đẻ bạn chia cho từ phần tài sản của bố mẹ từ trước khi kết hôn, hiện bố mẹ đẻ bạn đang trông nom giúp vì được tách ra từ phần đất bố mẹ đẻ bạn đang sinh sống.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì việc phân chia tài sản riêng sau khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án sẽ giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó. Như vậy, nếu hai vợ chồng không có thỏa thuận thì các tài sản này vẫn thuộc quyền sở hữu của bạn.
Về quyền nuôi con sau khi ly hôn:
Theo thông tin bạn cung cấp thì hai vợ chồng sinh được 2 con: con lớn 29 tháng tuổi và con nhỏ là 6 tháng tuổi.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
“3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, theo như thông tin của bạn và theo như căn cứ nêu trên thì hai con của bạn đều dưới 36 tháng tuổi, vì thế, sau khi ly hôn bạn có quyền nuôi cả hai cháu bé.
6. Không chịu giao con theo quyết định của Tòa phải làm sao?
Tóm tắt câu hỏi:
Công ty cho tôi hỏi: Tôi đã làm đơn ly hôn và tòa đã hòa giải lần thứ 2 không thành, chồng tôi không đồng ý ly hôn. Vậy cho tôi hỏi mất khoảng bao lâu thì tòa sẽ xử? Con tôi còn nhỏ, tòa sẽ xử theo mẹ nhưng nhà anh ta không muốn trao cho con cho tôi thì tôi phải làm thế nào?
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, quy định thời gian giải quyết ly hôn như sau:
– Thời gian thụ lý: Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn kiện tòa án phải tiến hành thụ lý vụ án.
– Quyết định sau thụ lý: Trong thời hạn 4 tháng kể từ ngày thụ lý, tùy từng trường hợp tòa án ra một trong các quyết định sau đây:
+ Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự (đoàn tụ hoặc thuận tình ly hôn);
+ Tạm đình chỉ giải quyết vụ án;
+ Đình chỉ giải quyết vụ án;
+ Đưa vụ án ra xét xử (nếu có một bên không đồng ý ly hôn hoặc có tranh chấp về con, tài sản).
– Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự.
– Quyết định đưa vụ án ra xét xử : Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử tòa án phải mở phiên tòa, trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là 02 tháng.
– Sau xét xử: Sau 15 ngày, kể từ ngày xét xử, nếu không có kháng cáo, kháng nghị, án sẽ có hiệu lực thi hành.
Với trường hợp của bạn, Tòa đã hòa giải 2 lần không thành, chồng bạn không đồng ý ly hôn nên Tòa án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn tối đa 02 tháng, Tòa phải mở phiên tòa xét xử vụ án.
Khoản 2, Khoản 3, Điều 81, Luật hôn nhân và gia đình 2014, quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con sau khi ly hôn như sau:
“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Như vậy, nếu con bạn dưới 36 tháng tuổi thì Tòa đương nhiên sẽ trao quyền nuôi con cho bạn. Nếu con bạn đã trên 36 tháng tuối thì bạn phải chứng minh điều kiện nuôi con để giành quyền nuôi con. Điều kiện nuôi con đảm bảo 02 điều kiện sau:
+ Điều kiện kinh tế: Có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống cho con, đáp ứng các nhu cầu cần thiết của con.
+ Điều kiện nhân thân: Có nhân thân tốt, không có hành vi vi phạm pháp luật, có lối sống lành mạnh.
7. Tranh chấp quyền nuôi con theo quy định hiện hành
Tóm tắt câu hỏi:
Em lấy chồng được gần một năm và hiện đang có con được hơn một tháng tuổi. Hiện em đang muốn ly hôn chồng với nhiều lý do như sau: lăng nhăng, ăn chơi nợ nần, cắm cố.suốt ngày chỉ ở nhà mà không chị đi làm lại còn đánh e nữa bố mẹ chồng thì luôn bênh con trai mình và không cần biết đúng sai phải trái như thế nào.
Vậy em đang muốn ly hôn anh/chị cho em hỏi em phải mất bao nhiêu lâu thì mới có thể ly hôn được và quyền nuôi con thì như thế nào ạ.
Đã có một vài lần e đòi ly hôn thì bố mẹ chồng và chồng e đều giữ con em lại và không cho em bế con em theo và còn doạ sẽ không cho e gặp mặt con em nữa kể cả toà án có giải quyết quyền nuôi con có thuộc về em thì cũng sẽ không giao con cho em.
Em không biết phải làm như thế nào nữa vì con e còn quá nhỏ mà bây giờ còn không được gần mẹ không được ăn sữa mẹ nữa e đã chứng kiến có trường hợp phải mất một thời gian dài mới có thể ly hôn được mà con e thì còn quá nhỏ e mà xa con em lâu thì không thể được vậy em mong anh/chị có thể tư vấn cho em biết em phải làm như thế nào ạ?
Luật sư tư vấn:
Theo như thông tin bạn cung cấp thì hiện tại giữa vợ chồng bạn đang có nhiều mâu thuẫn xuất phát từ việc chồng bạn có những hành vi lăng nhăng, ăn chơi nợ nần, cắm cố và bạo lực đối với bạn, ngoài ra, mẫu thuẫn cũng xuất phát từ phía gia đình nhà chồng. Như vậy, trong trường hợp cuộc sống hôn nhân của bạn có nhiều khúc mắc, không thể giải quyết và cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với chồng bạn quyền yêu cầu ly hôn đơn phương theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014:
Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Sau khi đã thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, Tòa án tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, trường hợp hòa giải không thành, sẽ tiến hành giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên theo quy định tại Điều 54 Luật Hôn nhân và gia đình 2014:
Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.
Theo như thông tin bạn cung cấp thì chồng bạn đã có hành vi bạo lực gia đình, kèm theo đó là lối sống không lành mạnh làm tình trạng hôn nhân trở nên khó khăn và đời sống chung khó có thể kéo dài, dựa vào những cơ sở này, Tòa án có thể căn cứ để giải quyết yêu cầu ly hôn cho bạn. Khi giải quyết ly hôn, về quyền nuôi con theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình sẽ thực hiện theo nguyên tắc sau:
Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Vì bạn không cung cấp thông tin cụ thể về số tuổi của con nên không thể xác định chính xác quyền nuôi con của bạn, trường hợp con dưới 36 tháng tuổi thì quyền nuôi con được giao trực tiếp cho người mẹ, trường hợp con từ 07 tuổi trở lên thì sẽ theo nguyện vọng của con, khi giải quyết vấn đề giành quyền nuôi con, Tòa án sẽ xem xét đến những yếu tố của hai bên cha mẹ về các mặt như: thu nhập ổn định đảm bảo cuộc sống cho con, điều kiện về thời gian chăm sóc con, điều kiện về lối sống, ảnh hưởng tới việc giáo dục con cái,..để đánh giá ai là người có điều kiện chăm sóc và giáo dục con cái tốt hơn, trong trường hợp của bạn thì bạn sẽ là người có khả năng giành được quyền nuôi con nhiều hơn chồng bạn, theo đó, người không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau khi ly hôn.
Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.
2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.
3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Trong trường hợp bạn là người trực tiếp nuôi con thì chồng và gia đình nhà chồng không có quyền ngăn cản bạn thực hiện hành vi này. Hành vi cản trở việc thực hiên quyền và nghĩa vụ của người khác trong quan hệ gia đình có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại Điều 53 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
Điều 53. Hành vi ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau
Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con, trừ trường hợp cha mẹ bị hạn chế quyền thăm nom con theo quyết định của tòa án; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
Ngoài ra, đối với hành vi sử dụng bạo lực của chồng bạn có thể bị xử lý theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
Điều 49. Hành vi xâm hại sức khỏe thành viên gia đình
1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng đối với hành vi đánh đập gây thương tích cho thành viên gia đình.
2. Phạt tiền từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Sử dụng các công cụ, phương tiện hoặc các vật dụng khác gây thương tích cho thành viên gia đình;
b) Không kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu điều trị trong trường hợp nạn nhân cần được cấp cứu kịp thời hoặc không chăm sóc nạn nhân trong thời gian nạn nhân điều trị chấn thương do hành vi bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc xin lỗi công khai khi nạn nhân có yêu cầu đối với các hành vi quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này.
Hoặc tùy thuộc vào tính chất hành vi mà có thể vị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cố ý gây thương tích tại Bộ luật Hình sự 2015, để chấm dứt hành vi này bạn có quyền tố cáo, yêu cầu cơ quan công an can thiệp để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Về vấn đề thời gian giải quyết yêu cầu ly hôn đơn phương của Tòa án là từ 4- 6 tháng, trong khoảng thời gian này thì bạn và chồng bạn vẫn có quyền và nghĩa vụ với con cái như nhau do vậy không ai có quyền ngăn cản việc chăm sóc, giáo dục con cái của bạn.
8. Điều kiện kinh tế để tranh chấp quyền nuôi con
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư. Luật sư có thể tư vấn giúp tôi việc hôn nhân gia đình tôi với. Tôi và vợ tôi cưới nhau năm năm hiện có một con gái 4 tuổi .Trong thời gian sống chung, tôi và vợ xảy ra cải vã và gia đình vợ luôn tìm cách chia rẽ hai vợ chồng. Bây giờ vợ tôi muốn ly hôn. Tài sản chung là rẫy vườn, tiền mặt, xe cộ, nhà tôi thuê xây lại hết 60 triệu vậy nếu vợ chồng tôi ly hôn tài sản này có được chia đôi không?
Còn phần quyền nuôi con, vợ tôi làm nghề cắt tóc thu nhập không cố định, vợ tôi ở một xã thuộc huyện eahleo. Còn tôi làm nghề sửa chữa mua bán điện thoại thu nhập 7 triệu một tháng. Tôi ở Đà Nẵng, gia đình bên nội thì buôn bán, còn bên ngoại thì làm rẫy. Như vậy tôi có quyền nuôi con không? Hiện giờ vợ chồng tôi đan sống ly thân, vợ ở nhà còn tôi ở nhà bạn. Rất mong luật sư tư vấn giúp. Xin cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”
Nếu vợ bạn có căn cứ chứng minh hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết ly hôn theo yêu cầu vợ bạn.
Thứ nhất, việc phân chia tài sản cưa vợ chồng: Nếu hai vợ chồng không thỏa thuận được việc chia tài sản chung thì tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
“…
2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.
Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.”
Thông thường tài sản chung của vợ chồng sẽ chia đôi khi ly hôn, tuy nhiên nếu chứng minh được công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập duy trì và phát triển khối tài sản chung hoặc hoàn cảnh gia đình và của vợ, chồng thì Tòa án sẽ căn cứ vào công sức đóng góp hoặc tạo lập duy trì của vợ, chồng; hoàn cảnh của vợ, chồng để chia tài sản chung của vợ chồng.
Thứ hai, vềquyền nuôi con khi ly hôn: Nếu như hai vợ chồng bạn không thỏa thuận được việc nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 như sau:
“1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2.Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Bạn có trình bạn con bạn hiện 4 tuổi, như vậy khi Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi thì không xem xét nguyện vọng của con. Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện kinh tế, phẩm chất đạo đức, điều kiện chăm sóc con của hai vợ chồng để quyết định việc sẽ giao con cho bên nào trực tiếp nuôi dưỡng.
Theo thông tin bạn cung cấp, điều kiện kinh tế của bạn tốt hơn so với vợ bạn do đó có thể bạn sẽ có lợi thế hơn trong việc giành quyền nuôi con.