Người chưa thành niên phạm tội là gì? Người chưa thành niên phạm tội tiếng anh là gì? Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đối với các vụ án hình sự? Điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên?
Người chưa thành niên là người đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện về thể chất, tâm sinh lý và nhân cách sống. Do sự giáo dục của gia đình và nhiều tác động xấu của môi trường xung quanh đã hình thành lên rất nhiều người phạm tội chưa thành niên. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người đó để họ có cơ hội làm lại cuộc đời và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Vậy, quá trình tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định và diễn ra như thế nào trong pháp luật hiện hành? Bài viết dưới đây sẽ giúp người đọc tìm hiểu về hoạt động điều tra, truy tố và xét xử đối với người chưa thành niên phạm tội.
1. Người chưa thành niên phạm tội là gì?
Theo Điều 21
“1. Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
2. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện.
3. Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
4. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay cũng chưa có một khái niệm rõ ràng quy định về người chưa thành niên, nhưng có thể định nghĩa người chưa thành niên là những người chưa đủ 18 tuổi theo quy định của
Phạm tội là hành động thực hiện tội phạm. Có nghĩa là phạm tội là hành vi có dấu hiệu của tội phạm phải qua điều tra, truy tố, xét xử mới xác định được hành vi phạm tội đó có phải là tội phạm không. Không phải mọi hành vi phạm tội đều là tội phạm.
Như vậy, ta có thể hiểu một cách đơn giản như sau: người chưa thành niên phạm tội những chủ thể dưới 18 tuổi tham gia vào một hay nhiều hành động thực hiện tội phạm.
Theo quy định của
Trong
2. Người chưa thành niên phạm tội tiếng anh là gì?
Người chưa thành niên phạm tội tiếng anh là “Juvenile offenders”.
3. Nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội đối với các vụ án hình sự.
Quy định cụ thể tại chương XII những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự 2015.
Các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm:
– Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lạnh mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
– Người chưa thành niên có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.
– Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp là giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc đưa vào trường giáo dưỡng.
– Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định của pháp luật hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
– Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
– Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên:
Theo Điều 302 Bộ luật hình sự 2015 quy định nội dung sau:
“1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên.”
Theo đó, những người được phân công tiến hành tố tụng trong các vụ án này phải là những người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến người chưa thành niên.
Ngoài ra, những người được phân công tiến hành tố tụng trong các vụ án này phải là những người đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan đến người chưa thành niên.
Nội dung cần phải xác định rõ khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử:
+ Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
+ Điều kiện sinh sống và giáo dục.
+ Có hay không có người thành niên xúi giục.
+ Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Bắt, tạm giữ, tạm giam:
Nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88 và Điều 120 Bộ luật hình sự thì người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam khi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải
Hỏi cung bị can:
Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành việc hỏi cung bị can theo quy định tại Điều 131 Bộ luật tố tụng hình sự.
Không được tiến hành hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không thể trì hoãn được nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản hỏi cung. Nghiêm cấm Điều tra viên, Kiểm sát viên bức cung hoặc nhục hình đối với bị can.
Nghiêm cấm Điều tra viên, Kiểm sát viên tự mình thêm bớt hoặc sửa chữa lời khai. Nếu có việc bổ sung, sửa chữa thì bị can và Điều tra viên, Kiểm sát viên đều phải ký trong từng trang. Nếu bị can tự viết lời khai thì bị can và Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên cùng phải ký xác nhận tờ khai đó.
Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên phải giải thích cho những người này biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Tất cả những người tham dự hỏi cung đều phải ký vào biên bản hỏi cung.
Nếu người bào chữa được hỏi bị can thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi và trả lời của bị can. Và hạn chế đến mức thấp nhất số lần lấy khai của người chưa thành niên.
Quyền bào chữa của người chưa thành niên:
Điều 305 BLTTHS quy định nội dung như sau:
“1. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công
Theo quy định của pháp luật, việc tham gia tố tụng của người bào chữa là bắt buộc trừ trường hợp người chưa thành niên và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa.
Về việc tham gia tố tụng của gia đình, nhà trường, tổ chức:
Quy định về Điều 306 BLTTHS quy định: đại diện của gia đình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao động, sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án.
Việc hỏi cung, lấy lời khai đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp cần thiết khác phải có mặt đại diện của gia đình, trừ trường hợp họ cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Nếu Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý thì đại diện gia đình có thể hỏi người tạm giữ, bị can; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; được đọc hồ sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
Xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố tụng là người chưa thành niên:
– Nghiên cứu hồ sơ vụ án và chuẩn bị xét xử:
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng cũng tương tự như việc nghiên cứu các vụ án hình sự khác. Tuy nhiên do pháp luật hình sự có những quy định riêng trong trình tự, thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là người bị tạm giữ, bị can nên khi nghiên cứu hồ sơ, Thẩm phán phải đặc biệt chú ý đến việc chấp hành các thủ tục, trình tự tố tụng này của Điều tra viên, Kiểm sát viên.
Trong trường hợp nếu phát hiện thấy có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng tức là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng nói chung và của người chưa thành niên nói riêng hoặc ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án thì cần tiến hành xét xử lại vụ án và thay đổi người tham gia xét xử vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với các vụ án hình sự có người chưa thành niên tham gia tố tụng, thì Thẩm phán cần nghiên cứu kỹ về độ tuổi, trình độ phát triển về thể chất, tinh thần, khả năng nhận thức về hành vi phạm tội; có người xúi giục không; nguyên nhân, điều kiện phạm tội; hoàn cảnh, động cơ, mục đích của người phạm tội. Ngoài ra cần nghiên cứu để xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết quan trọng khác có ảnh hưởng đến quyết định hình phạt như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; có hay không có người bảo lãnh… Từ các căn cứ trên, Thẩm phán có thể đề xuất việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam. Chỉ có thể quyết định tạm giam bị cáo chưa thành niên để chuẩn bị xét xử trong những trường hợp quy định tại Điều 303 BLTTHS. Nếu không phải áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc này thì giao bị cáo cho người đại diện hợp pháp hoặc người đỡ đầu giám sát.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải kiểm tra xem bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo có yêu cầu Luật sư không; người bị hại có mời người bào chữa hay không. Trong trường hợp bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên không mời nhưng có yêu cầu
– Phiên tòa:
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Khi kiểm tra căn cước của bị cáo, người bị hại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên thì Chủ tọa phiên tòa cần hết sức chú ý đến việc xác định ngày, tháng, năm sinh của họ. Trường hợp có việc không thống nhất về xác định tuổi của những người tham gia tố tụng này thì Hội đồng xét xử phải quyết định hoãn phiên tòa để trả hồ sơ điều tra bổ sung. Các vấn đề khác như xác định về đặc điểm nhân thân, lý lịch tư pháp về năng lực trách nhiệm hình sự, về tiền án, tiền sự…nếu không thể làm rõ được trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Hội đồng xét xử cũng phải hoãn phiên tòa để căn cứ theo các quy định của pháp luật.
Trong phần xét hỏi, trong vụ án có người chưa thành niên tham gia tố tụng cần chú ý một số vấn đề sau đây:
+ Việc đặt câu hỏi đối với người chưa thành niên phải ngắn gọn, rõ ràng, đơn giản và rất từ tốn, không được tỏ thái độ gay gắt, nhằm giúp cho người chưa thành niên hiểu, bình tĩnh trả lời đúng câu hỏi một cách khách quan. Nếu thấy họ chưa hiểu câu hỏi thì cần nhắc lại và có thể giải thích câu hỏi cho rõ hơn.
+ Trường hợp bị cáo do quá sợ hãi, không trả lời được câu hỏi hoặc mất bình tĩnh không trình bày được thì có thể động viên, giúp bị cáo trấn tĩnh (cho ngồi xuống, cách ly người lớn…), cũng có thể chuyển sang xét hỏi bị cáo khác, hỏi người bị hại… để bị cáo trấn tĩnh.
+ Việc hỏi đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức là rất cần thiết nhằm xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, động cơ, mục đích, hoàn cảnh phạm tội, từ đó Hội đồng xét xử có thể định hướng về biện pháp xử lý hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên.
Hội đồng xét xử cần chú ý xem xét các chứng cứ, các yêu cầu của đại diện gia đình, nhà trường. Nếu họ có yêu cầu hỏi bị cáo thì Hội đồng xem xét quyết định (tinh thần là Chủ tọa phiên tòa nên chấp nhận yêu cầu này của đại diện gia đình, nhà trường).
Trong phần tranh luận:
Ngoài bài bào chữa của người bào chữa thì đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại chưa thành niên, người giám hộ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan là người chưa thành niên, đại diện gia đình, nhà trường, tổ chức xã hội cũng có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa. Nếu người đại diện hợp pháp của những người tham gia tố tụng là người chưa thành niên tham gia phiên tòa và thực hiện việc bào chữa và nếu không có yêu cầu Luật sư thì họ được bào chữa, tranh luận (Tòa án không cần thiết phải chỉ định Luật sư hoặc người bào chữa cho bị cáo).
Nghị án và tuyên án:
Việc nghị án phải tuân thủ quy định tại Điều 222 BLTTHS. Tuy nhiên, trong khi nghị án, Hội đồng xét xử cần phải chú ý đặc biệt đến chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội được quy định trong BLHS.