Yêu cầu về hôn nhân và gia đình là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận.
Yêu cầu về hôn nhân và gia đình là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của mình hoặc của cá nhân khác, hoặc yêu cầu Tòa án không công nhận một số vấn đề trong lĩnh vực hôn nhân, gia đình được pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Theo Điều 28 BLTTDS sửa đổi năm 2011, gồm các yêu cầu sau:
Một là, yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Theo khoản 6 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì: “Kết hôn trái pháp luật là việc nam, nữ đã đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8 của Luật này”.
Theo quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì việc đăng ký kết hôn chỉ được tiến hành khi các bên đăng ký có đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014. Việc tổ chức đăng ký kết hôn sẽ do Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi cư trú của một trong hai bên kết hôn thực hiện. Tuy nhiên, khi đã kết hôn và về chung sống với nhau, một trong hai bên mới phát hiện ra chồng hoặc vợ của mình đã vi phạm các điều kiện quy định tại Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình thì có quyền gửi đơn yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Song, cần lưu ý, nếu việc hủy đăng ký kết hôn trong trường hợp một trong hai bên rơi vào khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình thì được xem là hợp lý.
Hai là, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Theo Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì “thuận tình ly hôn” được hiểu là:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn,nếu xét thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”
Tòa án ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn mà không phải mở phiên tòa khi có đủ các điều kiện sau: hai bên thật sự tự nguyện ly hôn, hai bên đã thỏa thuận được với nhau về việc chia hoặc không chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Như vậy, trường hợp vợ chồng cùng thể hiện ý chí là không muốn tiếp tục mối quan hệ hôn nhân đồng thời thỏa thuận được các vấn đề về việc chia tài sản, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì có thể yêu cầu Tòa án công nhận việc thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
Ba là, yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Ly hôn làm phát sinh vấn đề ai là người trực tiếp nuôi con. Theo quy định của pháp luật thì cả cha mẹ đều là những người có nghĩa vụ nuôi con. Dù cha hay mẹ là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì đều phải thực hiện nghĩa vụ này.
Trên thực tế, việc cha hay mẹ là người trực tiếp nuôi con không phải luôn luôn cố định mà có thể thay đổi. Có thể do nhiều lý do khác nhau như: người đang trực tiếp nuôi đứa trẻ tái hôn hay không có khả năng chăm sóc tốt cho con thì hai bên có thể thỏa thuận lại về việc nuôi con. Sự thay đổi này phải được sự công nhận của Tòa án bởi vì còn liên quan đến các vấn đề sau này như: người đại diện theo pháp luật, bồi thường thiệt hại cho con dưới mười lăm tuổi gây ra, trách nhiệm cấp dưỡng…
Bốn là, yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.
Để bảo vệ trẻ em một cách tốt nhất, giúp các em có được một cuộc sống tốt đẹp, pháp luật đã có những quy định cụ thể nhằm hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên là cần thiết. Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định các trường hợp hạn chế quyền đối với con chưa thành niên: Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh sự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi xâm phạm nghiêm trong nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; phá tài sản của con; có lối sống đồi trụy; xúi giục, ép buộc con làm nhưng việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội;
Năm là, yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, vì không gắn bó trên cơ sở huyết thống nên quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chỉ tồn tại về mặt pháp lý, tình cảm giữa cha mẹ nuôi và con nuôi đòi hỏi phải có một quá trình thử thách, trải nghiệm và xây dựng. Vì vậy, trong những trường hợp nhất định, việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt.
Như vậy, pháp luật nước ta đã trao quyền giải quyết các yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thuộc thẩm quyền của Tòa án.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Sáu là, yêu cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Tòa án nước ngoài mà không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
Bảy là, các yêu cầu khác về hôn nhân và gia đình mà pháp luật có quy định.
Hiện nay, có những yêu cầu không được quy định trong BLTTDS nhưng lại được quy định tại Luật hôn nhân và gia đình như yêu cầu về cấp dưỡng, hay yêu cầu xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc xác định con cho cha, mẹ mất năng lực hành vi dân sự… Như vậy, pháp luật tố tụng dân sự không thể liệt kê hết ra được tất cả các trường hợp giải quyết các yêu cầu thuộc thẩm quyền của Tòa án mà quy định chung thành “các yêu cầu khác”. Việc quy định này tránh được sự chồng chéo, trùng lặp giữa các quy định trong cùng một hệ thống pháp luật.