Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản theo Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015 là hành vi in, xuất bản, phát hành xuất bản phẩm trái phép hoặc có nội dung bị cấm, xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất bản. Đây là hành vi nguy hiểm, có thể gây tác động tiêu cực đến văn hóa, tư tưởng và đời sống xã hội; vì vậy pháp luật quy định xử lý nghiêm khắc nhằm bảo đảm môi trường xuất bản lành mạnh nhất.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
- 2 2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
- 4 4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 333 Bộ luật Hình sự:
- 5 5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan:
- 6 6. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản phẩm hiện nay:
1. Khái quát về Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
1.1. Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản là gì?
Trong những năm gần đây, hoạt động xuất bản ở Việt Nam phát triển mạnh cả về số lượng và loại hình, đặc biệt là sự bùng nổ của xuất bản phẩm điện tử. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quy định về hoạt động xuất bản vẫn diễn ra khá phổ biến như: in lậu, phát hành trái phép, xuất bản không có giấy phép hoặc tự ý thay đổi nội dung bản thảo đã được duyệt. Nhiều vụ việc bị phát hiện liên quan đến việc in hàng nghìn bản sách không phép, phát hành tài liệu có nội dung cấm hoặc nhập khẩu trái phép. Những vi phạm này không chỉ gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước và các nhà xuất bản hợp pháp mà còn tiềm ẩn nguy cơ làm lan truyền các tư tưởng, thông tin sai lệch, ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa xã hội.
Có thể đưa ra khái niệm về Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản như sau:
“Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản là hành vi của cá nhân hoặc tổ chức cố ý không tuân thủ các quy định pháp luật trong hoạt động xuất bản, in ấn, phát hành, bao gồm cả xuất bản phẩm truyền thống và điện tử. Đó có thể là việc in, phát hành không phép, phát hành xuất bản phẩm bị cấm, hoặc làm sai lệch nội dung đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến cơ chế quản lý nhà nước về xuất bản, đồng thời ảnh hưởng đến quyền tiếp cận thông tin chính thống của người dân.”
1.2. Ý nghĩa của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản trong pháp luật hình sự:
Việc quy định và xử lý hình sự đối với tội danh này có nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội: Ngăn chặn việc lợi dụng xuất bản để tuyên truyền thông tin sai lệch, kích động bạo lực hoặc truyền bá văn hóa phẩm độc hại.
- Thứ hai, bảo đảm quyền quản lý độc quyền của Nhà nước về xuất bản: Duy trì sự kiểm soát cần thiết nhằm bảo vệ định hướng tư tưởng, văn hóa và thông tin.
- Thứ ba, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà xuất bản và tác giả: Chống lại tình trạng in lậu, phát hành trái phép gây thiệt hại về kinh tế và quyền sở hữu trí tuệ.
- Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội: Thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, góp phần răn đe phòng ngừa và giáo dục ý thức tuân thủ quy định pháp luật trong hoạt động xuất bản.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản hiện nay đang được quy định tại Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào vi phạm quy định về hoạt động xuất bản thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) In 2.000 bản trở lên đối với từng xuất bản phẩm mà không có quyết định xuất bản, không có giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh hoặc không có bản thảo đã được ký duyệt theo quy định của pháp luật;
b) Xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm đã bị đình chỉ phát hành, bị thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy hoặc nhập khẩu trái phép với số lượng 500 bản trở lên đối với từng xuất bản phẩm;
c) Xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử có nội dung bị cấm, không có quyết định xuất bản hoặc không có bản thảo đã được ký duyệt theo quy định của pháp luật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh đã có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản để xuất bản bản thảo có nội dung bị cấm theo quy định của Luật Xuất bản;
c) Phát hành xuất bản phẩm có nội dung bị cấm theo quy định của Luật Xuất bản.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
2.1. Khách thể:
Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản xâm phạm trực tiếp đến: trật tự quản lý hành chính về lĩnh vực xuất bản.
Hiện nay, các quy định của Nhà nước về quản lý xuất bản đang được quy định tại Luật Xuất bản 2012.
Đối tượng tác động của tội phạm này là sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác được xuất bản trái phép.
Khoản 2 Điều 10 Luật Xuất bản 2012 quy định về những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản bao gồm:
- Xuất bản mà không đăng ký, không có quyết định xuất bản hoặc không có giấy phép xuất bản;
- Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản;
- In lậu, in giả, in nối bản trái phép xuất bản phẩm;
- Phát hành xuất bản phẩm không có nguồn gốc hợp pháp hoặc chưa nộp lưu chiểu;
- Xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đã bị đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy hoặc nhập khẩu trái phép;
- Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.”
2.2. Mặt khách quan:
Hành vi khách quan của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản là hành vi vi phạm quy định về xuất bản. Trong đó:
Theo khoản 1 Điều 4 Luật Xuất bản năm 2012: “Xuất bản” việc tổ chức, khai thác bản thảo, biên tập thành bản mẫu để in và phát hành hoặc để phát hành trực tiếp qua các phương tiện điện tử.
Xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác trái phép được người phạm tội thực hiện bằng nhiều thủ đoạn như: in lậu, bán hoặc phân phối lậu các ấn phẩm đã in lậu; in và phát hành các ấn phẩm Nhà nước cấm…
Việc xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác được quy định tại Luật xuất bản 2012 và các quy định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015 quy định cụ thể về hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực xuất bản như sau:
- In 2.000 bản trở lên đối với từng xuất bản phẩm mà không có quyết định xuất bản, không có giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh hoặc không có bản thảo đã được ký duyệt theo quy định của pháp luật
- Xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm đã bị đình chỉ phát hành, bị thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy hoặc nhập khẩu trái phép với số lượng 500 bản trở lên đối với từng xuất bản phẩm;
- Xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử có nội dung bị cấm, không có quyết định xuất bản hoặc không có bản thảo đã được ký duyệt theo quy định của pháp luật.
Trong đó, những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản được quy định tại khoản 1 Điều 10 Luật Xuất bản 2012. Theo đó nghiêm cấm việc xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm có nội dung sau đây:
- Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc;
- Tuyên truyền kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục;
- Tiết lộ bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định;
- Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc; không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân…”
Cần lưu ý: Trường hợp xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm hoặc xuất bản phẩm điện tử có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân hoặc bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân hoặc gây chiến tranh tâm lý nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nếu thỏa mãn dấu hiệu của Tội phát tán hoặc tuyên truyền thông tin nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội phát tán hoặc tuyên truyền thông tin nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015.
Trường hợp xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm hoặc xuất bản phẩm điện tử có nội dung làm lộ bí mật nhà nước, nếu thỏa mãn dấu hiệu của Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước theo Điều 337 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước thì tùy từng trường hợp, người thực hiện hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước theo Điều 337 Bộ luật Hình sự 2015 hoặc Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước theo Điều 338 Bộ luật Hình sự 2015.
Trường hợp xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm hoặc xuất bản phẩm điện tử có nội dung bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệu hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nếu thỏa mãn dấu hiệu pháp lý của tội vu khống thì người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự vè Tội vu khống theo Điều 156 Bộ luật Hình sự 2015.
Trường hợp xuất bản, in hoặc phát hành xuất bản phẩm hoặc xuất bản phẩm điện tử có nội dung khiêu dâm, đồi trụy, nếu thỏa mãn dấu hiệu của tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy, thì người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo Điều 326 Bộ luật Hình sự 2015.
Trường hợp xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử chứa đựng những thông tin trái với quy định của pháp luật ngoài những trường hợp trên gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, nếu thỏa mãn dấu hiệu của tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông, thì người thực hiện hành vi bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo Điều 288 Bộ luật Hình sự 2015.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi đó.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội vi phạm các quy định về hoạt động xuất bản là người đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự.
Pháp nhân thương mại không phải chủ thể của tội danh này.
3. Khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản:
Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản theo Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015 quy định những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo Điều 333 Bộ luật Hình sự:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản được quy định tại khoản 2 Điều 333 Bộ luật Hình sự 2015 với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi vi phạm quy định về hoạt động xuất bản được thực hiện có tổ chức là khi các bên có sự cấu kết và phân công vai trò giữa nhiều người nhằm in, phát hành hoặc xuất bản trái phép thì mức độ nguy hiểm cao hơn nhiều so với hành vi cá nhân. Tính chất có tổ chức thể hiện sự chủ động, chuẩn bị kỹ lưỡng, làm gia tăng khả năng phát tán rộng rãi xuất bản phẩm vi phạm, gây ảnh hưởng lớn đến xã hội. Vì vậy, pháp luật quy định tình tiết này là tình tiết tăng nặng khung hình phạt của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản theo khoản 2 Điều 344.
- Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh đã có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản để xuất bản bản thảo có nội dung bị cấm theo quy định của Luật Xuất bản theo điểm b Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp đối tượng tự ý thay đổi, chỉnh sửa hoặc làm sai lệch bản thảo đã được cơ quan có thẩm quyền ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh đã có dấu xác nhận để in ấn thì đây là hành vi gian dối, xâm phạm trực tiếp đến hoạt động quản lý xuất bản. Đặc biệt, khi sự thay đổi làm xuất bản phẩm chứa nội dung bị cấm theo quy định của Luật Xuất bản thì hậu quả đối với xã hội càng nghiêm trọng hơn bởi thông tin sai lệch có thể tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng văn hóa. Do đó cần xử lý ở mức hình phạt nặng hơn.
- Phát hành xuất bản phẩm có nội dung bị cấm theo quy định của Luật Xuất bản theo điểm c Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015:
Xuất bản phẩm có nội dung bị cấm thường liên quan đến việc tuyên truyền chống Nhà nước, kích động bạo lực, khiêu dâm đồi trụy hoặc các nội dung độc hại khác theo quy định của Luật Xuất bản 2012. Hành vi phát hành các xuất bản phẩm này gây ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia, thuần phong mỹ tục, trật tự xã hội và quyền lợi của công dân. Do đó, đây là tình tiết đặc biệt nghiêm trọng của Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản, được quy định trong khung hình phạt tăng nặng để bảo đảm tính răn đe và phòng ngừa chung.
5. Phân biệt với Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan:
Tiêu chí | Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội vi phạm quy định về hoạt động xuất bản (Điều 344 Bộ luật Hình sự 2015) |
---|---|---|
Khách thể bị xâm hại | Quyền tác giả, quyền liên quan được pháp luật bảo hộ (tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình…). | Chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động xuất bản, in ấn, phát hành. |
Hành vi khách quan | Sao chép, phân phối tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình không được phép của chủ thể quyền; thực hiện với quy mô thương mại hoặc gây thiệt hại, thu lợi bất chính theo ngưỡng luật định. | In, xuất bản, phát hành xuất bản phẩm không phép, bị cấm, bị đình chỉ, hoặc làm sai lệch bản thảo đã được duyệt; bao gồm cả xuất bản phẩm điện tử. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Khung 2: Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Pháp nhân thương mại | Xử lý theo khoản 4 Điều 225 Bộ luật Hình sự 2015. | Không quy định xử lý pháp nhân thương mại. |
Tính chất vi phạm | Chủ yếu mang tính xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhằm trục lợi kinh tế. | Chủ yếu mang tính xâm phạm trật tự quản lý xuất bản, dễ ảnh hưởng đến tư tưởng, văn hóa, an ninh xã hội. |
6. Vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản phẩm hiện nay:
Hoạt động xuất bản là lĩnh vực đặc thù, gắn liền trực tiếp với văn hóa, tư tưởng và thông tin trong xã hội. Vì vậy, Nhà nước giữ vai trò quản lý tối cao nhằm bảo đảm hoạt động xuất bản diễn ra đúng định hướng và đúng pháp luật, phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện ở một số khía cạnh nổi bật sau:
a. Định hướng chính trị – tư tưởng: Nhà nước định ra đường lối và chính sách xuất bản phù hợp với lợi ích quốc gia, bảo vệ nền tảng tư tưởng, ngăn chặn các xuất bản phẩm có nội dung phản động, bạo lực, khiêu dâm và đi ngược lại truyền thống, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
b. Ban hành và hoàn thiện pháp luật: Nhà nước xây dựng hệ thống pháp luật về xuất bản như Luật Xuất bản 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành khác có liên quan; tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức, quản lý và xử lý các vi phạm trong hoạt động xuất bản.
c. Cấp phép, kiểm duyệt và giám sát: Thông qua các cơ quan quản lý chuyên ngành, Nhà nước thực hiện việc cấp giấy phép xuất bản, phê duyệt bản thảo, quản lý hoạt động in, phát hành; đồng thời giám sát kiểm tra, thanh tra để bảo đảm tính minh bạch và đúng pháp luật.
d. Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các chủ thể liên quan: Quản lý Nhà nước góp phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của tác giả, nhà xuất bản, đơn vị phát hành cũng như quyền được tiếp cận thông tin chính thống của công chúng, hạn chế nạn in lậu và xuất bản trái phép.
e. Phát triển văn hóa – xã hội: Hoạt động quản lý xuất bản của Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc ngăn chặn vi phạm mà còn tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ xuất bản phẩm có giá trị về khoa học, giáo dục, văn hóa; góp phần nâng cao dân trí và phát triển văn hóa đọc trong cộng đồng.
THAM KHẢO THÊM: