Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên và người mất năng lực hành vi dân sự được quy định như thế nào?
Thứ nhất, cha mẹ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 606 “Bộ luật dân sự 2015” thì đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người dưới 15 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây ra thì sẽ do cha mẹ của họ có trách nhiệm bồi thường bằng tài sản của cha, mẹ. Trường hợp này, người gây thiệt hại trực tiếp và chủ thể có trách nhiệm bồi thường là khác nhau; Có thể thấy những người ở độ tuổi này không có năng lực hành vi tố tụng dân sự và không tự mình có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Vì vậy, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người ở độ tuổi này tại Toà án phải do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đối với những người ở độ tuổi dưới 15 tuổi, theo quy định tại Điều 19, Điều 20 “Bộ luật dân sự 2015” về năng lực chủ thể của cá nhân thì điều kiện để một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cá nhân đó phái thoả mãn hai yếu tố là độ tuổi trưởng thành (từ 18 tuổi trở lên) và yếu tố nhận thức trí lực (bộ não phát triển hoàn toàn bình thường). Chính nhờ hai yếu tố này giúp cá nhân biết suy nghĩ, suy xét về mọi hiện tượng, sự việc trong xã hội, nhận thức được hành vi, hậu quả của hành vi trước khi thực hiên và chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình. Cá nhân chưa đủ 6 tuổi không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình được coi là những người không có năng lực hành vi dân sự. Họ không thể tự mình xác lập giao dịch dân sự mà đều phải đươc người đại diện theo pháp luật xác lâp, thực hiện hoặc đồng ý. Như vậy, cá nhân không có năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác thì cha, mẹ là những người đại diện đương nhiên của họ với tư cách là bị đơn dân sự trước Toà án.
Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi là những người có năng lực hành vi dân sự một phần (không đầy đủ). Những người thuộc lứa tuổi này khả năng nhận thức còn nhiều hạn chế, họ chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đó là những giao dịch dân sự nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi. Ngoài ra, những giao dịch khác khi họ xác lập, thực hiện phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Như vậy, những người dưới 15 tuổi là những người chưa phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lý, chưa nhận biết được hết những hậu quả cho xã hội của hành vi do mình thực hiện. Trên những cơ sở đó, BLDS khi quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con từ dưới 15 tuổi gây ra. Chính vì thế, cha, mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn dân sự, cha, mẹ là người đại diện hợp pháp đương nhiên cho con; cha, mẹ có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của con; còn chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có năng lực hành vi tố tụng dân sự trước
Thứ hai, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người giám hộ.
Khoản 3 Điều 606 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
“Người chưa thành niên gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường”.
Có thể thấy, giám hộ là một vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong đời sống xã hội. Theo Điều 58 BLDS năm 2005:
“Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức ( sau đây gọi chung là người giám hộ ) được pháp luật quy định hoặc được cử để thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự ( sau đây gọi chung là người được giám hộ ) ”.
Người giám hộ là người trực tiếp thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được giám hộ nên họ cũng phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý trong trường hợp người được giám hộ gây thiệt hại.
Trách nhiệm này chỉ đặt ra khi cha, mẹ của người gây thiệt hại không còn hoặc tuy cha, mẹ còn sống nhưng không đủ điều kiện làm người giám hộ cho con thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về anh cả hoặc chị cả đã thành niên có đủ điều kiện làm người giám hộ cho em chưa thành niên. Nếu anh cả và chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh, chị tiếp theo đã thành niên đủ điều kiện phải làm giám hộ. Trong trường hợp người đó không có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại phải là người giám hộ, nếu không có ai trong số những người thân thích này có đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác, chú, cậu, cô, dì làm người giám hộ cho người chưa thành niên (Điều 62 BLDS)
Căn cứ khoản 3 Điều 606 BLDS thì khi người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác, người giám hộ có trách nhiệm dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác. Nếu người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Ngoài ra, trong trường hợp người chưa thành niên, người bị mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ, nhưng người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của người giám hộ để bồi thường. Trong trường hợp này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại vẫn thuộc về cha, mẹ của người được giám hộ nếu căn cứ xác lập quan hệ giám hộ là cha, mẹ của người được giám hộ bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không đủ điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó hoặc cha, mẹ yêu cầu chỉ định người giám hộ cho con chưa thành niên và con mất năng lực hành vi dân sự. Nhưng trong trường hợp căn cứ xác định quan hệ giám hộ là người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự mà cũng không có người giám hộ hay khi người giám hộ hoàn toàn không có lỗi trong việc giám hộ nếu người chưa thành niên gây thiệt hại thì người bị thiệt hại không được bồi thường và trường hợp này được xem là trường hợp người bị thiệt hại chịu rủi ro vì yêu cầu bồi thường không thể thực hiện được.
– Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ là người dưới 15 tuổi gây ra: Trong trường hợp con dưới 15 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về trước tiên là của cha mẹ. Trong trường hợp cha, mẹ đều không còn hoặc tuy cha, mẹ còn sống nhưng không chưa đủ điều kiện làm người giám hộ cho con thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trước hết là trách nhiệm của anh cả hoặc chị cả đã thành niên có đủ điều kiện phải làm người giám hộ của em chưa thành niên. Nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người tiếp theo đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ; Trường hợp không có anh, chị, em ruột hoặc anh, chị, em ruột không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoài, bà ngoại có đủ điều kiện phải là người giám hộ (Điều 62 BLDS năm 2005). Vậy theo Khoản 2 Điều 606 BLDS thì anh cả hoặc chị cả, hay ông, bà nội hoặc ông, bà ngoại là người giám hộ thì họ được quyền dùng tài sản riêng của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại. Nếu người được giám hộ gây thiệt hại mà không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường, thì người giám hộ phải bồi thường thiệt hại bổ sung bằng tài sản của mình. Nếu người giám hộ có lỗi khi thực hiện việc giám hộ. Khi đó, nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì họ cũng không phải lấy tài sản của mình để bồi thường khi người được giám hộ gây thiệt hại.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
– Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người được giám hộ là người mất năng lực hành vi dân sự gây ra: Người mất năng lực hành vi dân sự đang do cha, mẹ chăm sóc, quản lý, giáo dục mà gây thiệt hại thì cha, mẹ phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Trong trường hợp họ được giám hộ theo quy định tại Điều 62 BLDS năm 2005 thì trách nhiệm bồi thường được xác định như sau:
+ Với người mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ (hoặc chồng) thì người vợ (chồng) có đủ điều kiện là người giám hộ được lấy tài sản riêng của người đó để bồi thường. Nếu tài sản riêng của người đó không đủ để bồi thường thì lấy tài sản chung của vợ chồng đền bù sau đó mới lấy tài sản riêng của vợ (chồng) là người giám hộ để bồi thường phần còn thiếu nếu họ có lỗi trong việc quản lí người được giám hộ.
+ Người được giám hộ là cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự còn người kia không có đủ điều kiện để giám hộ thì người con cả đã thành niên có đủ điều kiện phải là người giám hộ …Trường hợp này người giám hộ được lấy tài sản của cha, mẹ để bồi thường cho người bị thiệt hại. Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ thì người giám hộ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản riêng của mình nếu học có lỗi trong quản lý người được giám hộ.
+ Người đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự đã có vợ, chồng, con nhưng vợ, chồng, con không đủ điều kiện để làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ. Cha, mẹ có quyền lấy tài sản của người giám hộ để bồi thường. Khi tài sản riêng của người được giám hộ và tài sản chung vợ chồng không đủ thì cha, mẹ mới phải bồi thường bằng tài sản của mình nếu có lỗi.
Thứ ba, trường học, bệnh viện, tổ chức phải thực hiện bồi thường thiệt hại
Điều 621 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
“Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra. Nếu trường học, bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự phải bồi thường”.
Trường hợp này tuy người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi và người mất năng lực hành vi trực tiếp gây ra thiệt hại nhưng trách nhiệm bồi thường lại thuộc về những người có nghĩa vụ quản lí, nuôi dưỡng, giáo dục họ. Nhà trường, bệnh viện, tổ chức được coi là đã có lỗi khi không thực hiện tốt nghĩa vụ quản lí, giám sát để họ gây thiệt hại. Nếu như trường học, bệnh viện, tổ chức đó chứng mình được là mình không có lỗi trong quản lí thì cha, mẹ hoặc người giám hộ phải có trách nhiệm bồi thường.