Tổ chức tín dụng là khái niệm không còn quá xa lạ với chúng ta trong thời buổi kinh tế ngày càng phát triển. Vậy hiểu về tổ chức tín dụng thế nào là đúng theo quy định pháp luật. Bài viết dưới đây của Luật Dương gia sẽ giúp cho bạn đọc có những kiến thức pháp lý về tổ chức tín dụng.
Mục lục bài viết
1. Tổ chức tín dụng là gì?
Căn cứ khoản 1, Điều 4,
“Điều 4. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.”
Từ khái niệm bên trên ta có thể thấy tổ chức tín dụng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng là tiền tệ – vật mang giá. Đối với các chủ thể mua bản thông thường, tiền tệ là phương tiện thanh toán dùng trong các hoạt động mua bán, trao đổi. Còn đối với các tổ chức tín dụng, tiền tệ còn có thêm chức năng là đối tượng kinh doanh. Một đổi tượng kinh doanh tiền ẩn nhiều rủi ro. Bởi lẽ, các hàng hoá thông thường, bản thân nó đã kết tinh giá trị và sức lao động của người tạo ra nó, bởi vậy, giá cả của nó là do nó quyết định. Còn đối với tiền tệ, một phương tiện thanh toán, bản thân nó không tự quy định được giá trị của nó, bởi vậy, người kinh doanh nó cũng không thể quyết định được và ấn định giá cả. Sự lên xuống của đồng tiền phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như: chính sách của nhà nước, tình hình kinh tế – xã hội…
Thứ hai: Hoạt động thường xuyên của tổ chức tín dụng đó là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán; mà vẫn được đề cập đến một cách ngắn gọn là “đi vay để cho vay”. Không phải tất cả các chủ thể kinh doanh đều có đủ vốn để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: Hoạt động của các tổ chức tín dụng có tính nhạy cảm cao và luôn chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Kinh doanh ngân hàng dua trên niềm tin, vì vậy tính nhạy cảm trong kinh doanh rất cao. Chi cần một biến động nhỏ cũng có thể gây tác động đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng (một thay đổi nhỏ về lãi suất cũng có thể dẫn đến sự dịch chuyền khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác). Nếu các tổ chức tín dụng hoạt động tốt, sẽ góp phần thiết kiệm các nguồn lực, giảm thiểu chi phí cho xã hội, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. Ngược lại, khi tổ chức tín dụng phá sản sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khách hàng gửi tiền và sự phá sản của tổ chức tín dụng luôn có hiệu ứng dây chuyền, lây lan rất lớn và tác động xấu đến đời sống kinh tế, cho nên hoạt động kinh doanh ngân hàng phải được giám sát chặt chẽ, thường xuyên bằng pháp luật.
Thứ tư: kinh doanh ngân hàng gắn liền với yếu tổ rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra đối với bất kỳ loại hình kinh doanh nào. Tuy nhiên, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có những đặc điểm khác biệt với các lĩnh vực kinh doanh khác về mức độ và nguyên nhân. Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có tính lan truyền và để lại hậu quả to lớn, không chỉ bao gồm rủi ro nội tại của ngành mà còn của tất cả các ngành khác trong nền kinh tế, không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà còn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác.
Qua phân tích ta có thể thấy được rằng tổ chức tín dụng là một chủ thể kinh doanh đặc thù:
+ Nếu theo các lĩnh vực hoạt động, thì có thể chia thành tổ chức tín dụng là ngân hàng – được kinh doanh tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động có liên quan, và tổ chức tín dụng phi ngân hàng – được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán.
+ Nếu theo hình thức sở hữu, có thể chia thành tổ chức tin dụng nhà nước, tổ chức tín dụng tư nhân và tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài.
2. Hoạt động của tổ chức tín dụng:
Các tổ chức tín dụng hoạt động trên các lĩnh vực sau:
2.1. Huy động vốn:
Huy động vốn là một quyền năng đặc thù của các tổ chức tín dụng. Việc huy động vốn không chi đơn thuần là một hình thức kêu gọi vốn góp nhàn rỗi nhằm mục đích bổ sung vốn kinh doanh, mà còn là một hình thức kinh doanh dem lại lợi nhuận. Việc huy động vốn của các tổ chức tín dụng rất đa dạng và được thực hiện bằng chính các nghiệp vụ kinh doanh của tổ chức tín dụng như: nhận tiền gửi của các khách hàng cá nhân, khách hàng doanh nghiệp; phát hành giấy tờ có giá; vay vốn từ ngân sách nhà nước, từ các tổ chức tín dụng… Các nguồn vốn huy động được trở thành nguồn vốn hoạt động chủ yếu của tổ chức tín dụng.
– Nhận tiền gửi, tiền gửi là tiền mà khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi có thời hạn, không thời hạn, tiết kiệm hay hình thức khác.
– Phát hành giấy tờ có giá như trái phiếu, cổ phiếu.
– Vay vốn của tổ chức, cá nhân khác: doanh nghiệp nếu có khó khăn, có thể vay của nhau tạm thời.
2.2. Cấp tín dụng:
Hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo hành ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Hoạt động ngân hàng trong thời kỳ đối mới đã có những khác biệt về chất so với thời kỳ kế hoạch hóa tập trung trước đây và ngày càng phản ánh sâu sắc hơn các quan hệ thị trường, đảm bảo quyền tự chủ kinh đoanh cho các tổ chức tín dụng. Các hình thức cấp tín dụng ngày càng đa dạng tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng lựa chọn các hình thức cấp tín dụng phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng, từng nhu cầu vay vốn. Gồm các hình thức như:
+ Cho vay
+ Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá và các công cụ chuyển nhượng
+ Cung cấp dịch vụ bảo lãnh
+ Cho thuê tài chính
2.3. Cung ứng dịch vụ thanh toán:
Hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ và các giao dịch khác trong nền kinh tế cuối cùng đều kết thúc bằng khâu thanh toán. Thanh toán ngân hàng, thực chất, đơn giản chi là những nghiệp vụ chỉ trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản thanh toán khác giữa các tác nhân trong nước và quốc tế được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. Để quá trình thanh toán được thực hiện một cách thuận lợi và an toàn, thanh toán qua ngân hàng là biện pháp được các chủ thể kinh tế lựa chọn hàng đầu. Và trên cơ sở các quy định của pháp luật, các tổ chức tín dụng lựa chọn các hình thức thanh toán phù hợp để cung ứng theo nhu cầu của các khách hàng.
Thanh toán ngân hàng bao gồm hai bộ phận: thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Ở bất cứ một quốc gia nào, thanh toán không dùng tiền mặt cũng được coi là thách thức mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm, nó chiếm tỷ trọng lớn trong tổng khối lượng thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế, trong một số trường hợp, các ngân hàng vẫn phải sử dụng tiền mặt trong các giao dịch hång ngày, dù không nhiều.
– Mở tài khoản, cung ứng phương tiện thanh toán(thẻ tín dụng, séc, ngân phiếu) thực hiện dịch vụ thanh toán(thu hộ, chi hộ, hoạt động ngân quỹ)
– Chỉ có tổ chức này mới được thực hiện hoạt động thanh toán quỹ tín dụng trung ương.
2.4. Kinh doanh ngoại hối:
+ Giao dịch giao ngay (Spot)
Giao dịch giao ngay là giao dịch mua bán một số lượng ngoại tệ giữa hai bên theo tỷ giá giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày cam kết mua bán
+ Giao dịch có kỳ hạn (Forward)
Giao dịch có kỳ hạn là một giao dịch trong đó hai bên sẽ cam kết mua bán với nhau một lượng ngoại tệ theo một tỷ giá xác định tại thời điểm giao dịch và việc thanh toán sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định kế từ ngày ký kết giao dịch.
+ Giao dịch hoán đổi (Swap) ngoại hối
Đây là hình thức giao dịch hối đoái bao gồm đồng thời cả hai giao dịch: Giao dịch mua và giao dịch bán cùng một số lượng đồng tiền này với một đồng tiến khác, trong đó kỳ hạn thanh toán của hai giao dịch này khác nhau và tỷ giá của hai giao dịch này được xác định tại thời điểm ký kết hợp đồng.
+ Giao dịch đồng tương lai (Future)
Giao dịch hợp đồng tương lai là một giao dịch tiền tệ thực hiện trong tương lai, thể hiện bằng việc mua bán những hợp đồng với số lượng tiền định sẵn, tỷ giá ấn định vào thời điểm ký hợp đồng và ngày nhận được ấn định theo quy định của từng sở giao dịch. Khác với hợp đồng có kỳ hạn, hợp đồng tương lai là hợp đồng chuẩn hoá về loại ngoại tệ giao dịch, số lượng giao dịch và ngày thanh toán cụ tương lai.
+ Giao dịch hợp đồng quyền lựa chọn (Option)
Trên thị trường hối đối, hợp đồng quyền lựa chon cho phép người mua có quyền mua hoặc bán( nhưng không bắt buộc) một số lượng ngoại tệ nhất định với giá cả ấn định ( giá thực hiện) vào hoặc tới một ngày ấn định.
2.5. Hoạt động khác:
Ngoài những hoạt động khác ngoài những hoạt động bên trên:
– Góp vốn, cổ phần bao gồm:
+Góp vốn điều lệ: doanh nghiệp, tổ chức tín dụng khác, công ty con, công ty liên kết, quỹ tín dụng và chỉ được góp tối đa 30%,
+ Mua cổ phần.
– Kinh doanh vàng
+ Chỉ được sản xuất, gia công vàng
+ Mùa bán vàng
+ Xuất khẩu, nhập khẩu vàng
+ Kinh doanh vàng trên tài khoản và hoạt động phái sinh về vàng
+ Huy động vốn, cho vay vàng.
3. Đặc điểm tổ chức tín dụng:
– Đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng : các tổ chức tín dụng hoạt động chủ yếu liên quan đến đối tượng là tiền tệ. Trong thời buổi kinh tế phát triển như ngày nay thì đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng không chỉ dừng lại ở tiền tệ mà còn nhiều loại hình khác nữa.
– Hoạt động kinh doanh đặc thù của tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh đặc thù và chủ yếu đó là việc huy động vốn và sử dụng vốn sẵn có hoặc nguồn vốn huy động được.
+ Huy động vốn của tổ chức tín dụng là việc: nhận tiền gửi vay vốn ngân hàng nhà nước. Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
+ Sử dụng vốn của tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng cấp tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán cho đối tượng sử dụng vốn của chính tổ chức tín dụng đó.
Tổ chức tín dụng hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay do đó giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn vay, tổ chức tín dụng phải thực hiện công tác huy động. Nếu số lượng vốn huy động nhiều thì tổ chức tín dụng có thể tăng cường hoạt động sử dụng vốn, khi đó tổ chức tín dụng có thể mở rộng các khoản cho vay, các khoản đầu tư.
Trong trường hợp tổ chức tín dụng đã áp dụng đầy đủ các biện pháp như thay đổi lãi suất, mở rộng các dịch vụ nhưng cũng không thể tăng được khối lượng vốn huy động dẫn đến việc phải thực hiện chính sách tín dụng có lựa chọn, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng.
– Tính rủi ro: nguy cơ mất vốn hoặc có thể gây ra rủi ro cho toàn hệ thống tín dụng. Rủi ro trong hoạt động tín dụng được hiểu là những không may bất ngờ xảy đến, là sự kiện không may, trở ngại bất ngờ xảy ra gây nên thiệt hại trực tiếp tới hoạt động của các tổ chức tín dụng.
– Quản lý tổ chức tín dụng: chủ thể quản lý là ngân hàng nhà nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của tổ chức tín dụng, ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
4. Điều kiện thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng:
– Điều kiện thành lập và hoạt động vô cùng chặt chẽ yêu cầu vốn theo quy định và nguồn nhân lực và chuyên môn nghiệp vụ.
Căn cứ theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định cụ thể về điều kiện cấp Giấy phép thì tổ chức tín dụng chỉ được cấp giấy phép khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
+ Quy định về vốn điều lệ, vốn được cấp thì vốn điều lệ , vốn được cấp tối thiểu phải bằng mức vốn pháp định;
+ Quy định về chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là pháp nhân đang hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính để tham gia góp vốn; cổ đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có đủ khả năng tài chính để góp vốn.
Điều kiện đối với chủ sở hữu của tổ chức tín dụng là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập do Ngân hàng Nhà nước quy định;
+ Đối với người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát của tổ chức tín dụng phải có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định tại Điều 50 của Luật này;
+ Tổ chức tín dụng phải có Điều lệ phù hợp với quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
+ tổ chức tín dụng phải có Đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh hưởng đến sự an toàn, ổn định của hệ thống tổ chức tín dụng; không tạo ra sự độc quyền hoặc hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong hệ thống tổ chức tín dụng.
5. Phân loại tổ chức tín dụng:
Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.
– Ngân hàng: là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo quy định của Luật này.Tổ chức tín dụng là ngân hàng không bị hạn chế phạm vi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Ngoài các hoạt động kinh doanh ngân hàng, tổ chức tín dụng là ngân hàng còn được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như bảo quản tài sản quý hiếm, tư vấn tài chính…..
Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã.
– Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định như là nội dung kinh doanh thường xuyên như , trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
– Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.
– Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống.
Quỹ tín dụng nhân dân thuộc loại hình tổ chức kinh tế tập thể, hoạt động theo nguyên tắc tự bù đắp chi phí để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo giấy phép, chủ yếu trong phạm vi các thành viên. Quỹ hoạt động thường dưới sự bảo trợ của ngân hàng nhà nước, lãi suất tiền gửi và cho vay thường là linh hoạt , thực chất là các thành viên cùng góp vốn để kinh doanh tiền tệ.
6. Ý nghĩa của việc phân loại tổ chức tín dụng:
Việc phân loại tổ chức tín dụng thành các tổ chức bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát việc hoạt động cụ thể như sau
-Đối với các tổ chức tín dụng: việc phân loại tổ chức tín dụng thành các tổ chức bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân có ý nghĩa giúp cho tổ chức tín dụng biết mình nằm ở nhóm nào, áp dụng văn bản pháp luật nào để từ đó tuân thủ theo đúng pháp luật.
– Đối với nhà nước:việc phân loại các tổ chức tín dụng thành các tổ chức bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân có ý nghĩa giúp nhà nước căn cứ vào đó áp dụng biện pháp đảm bảo an toàn đối với từng loại hình, căn cứ để giới hạn hoạt động phù hợp với bản chất, chức năng, nghiệp vụ.
7. Một số tổ chức tín dụng điển hình:
+ Tổ chức tín dụng ngân hàng ví dụ như:
Ngân hàng chính sách xã hội :Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng do Nhà nước thành lập để cho những người thuộc đối tượng chính sách vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
Ngân hàng chính sách xã hội là ngân hàng phục vụ người nghèo có chức năng khai thác các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước , tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho người nghèo vay, thực hiện chương trình của Chính phủ đối với người nghèo.
Hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xóa đói, giảm nghèo , không vì mục đích lợi nhuận , thực hiện việc bảo toàn vốn ban đầu, phát triển vốn, bù đắp chi phí. Ngân hàng phục vụ người nghèo thực hiện cho vay trực tiếp đối với hộ nghèo có sức lao động nhưng thiếu vốn, được vay vốn để phát triển sản xuất, không phải thế chấp tài sản, có hoàn trả vốn vay và theo lãi suất quy định.
+ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng như:
Các công ty tài chính như công ty tài chính bán hàng, công ty tài chính tiêu dùng, công ty tài chính doanh nghiệp. Các công ty tài chính sở hữu một hình thức trung gian về tài chính tín dụng cố định. Các công ty tài chính thực hiện việc đi huy động các vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau, thực hiện nhận các khoản tiền gửi từ các tổ chức, điều chỉnh các khoản tiền gửi cho phù hợp và quản lí nó, tiến hành việc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, cổ phiếu hoặc trái phiếu để phát tín hiệu đến các công ty và các tổ chức với mục đích là huy động vốn đầu tư.
Ngoài ra các công ty tài chính còn thực hiện việc huy động và nhận vốn đầu tư ra thì công ty này cũng sẽ là nguồn đầu tư tiềm năng và cho vay dưới các hình thức khác nhau : vay tiêu dùng, vay tín dụng, vay theo kỳ khoản, vay trả góp,…Phát hành các loại thẻ tín dụng, cho thuê tài chính khi được sự cho phép của Ngân hàng nhà nước
+ Quỹ tín dụng nhân dân như:
Trên thực tế hiện nay, quỹ tín dụng dân dân đóng một vai trò rất lớn trong việc hỗ trợ nguồn vốn cho nhân dân. Trong đó, đặc biệt là người dân tại những khu vực nông nghiệp và nông thôn có kinh tế khó khăn, đặc biệt khó khăn không chỉ được vay vốn để sản xuất kinh doanh mà họ có điều kiện, cơ hội tiếp cận với các dịch vụ tài chính ngân hàng.
Điều này giúp cho người dân khó khăn giải quyết được vấn đề kinh tế trong làm ăn, buôn bán mà họ còn có nơi an toàn và thuận tiện để đầu tư các khoản tiền nhàn rỗi, tiết kiệm của mình. Chính các nguồn vốn huy động tại chỗ này mới là nền tảng cơ sở căn bản và lâu dài để các quỹ tín dụng nhân dân có thể cho các thành viên của mình vay vốn nhằm xoá đói giảm nghèo, hạn chế tệ nạn tín dụng đen vùng nông nghiệp nông thôn, cải thiện đời sống, nhiều hộ vươn lên giàu có.