Số hiệu | 26/2021/HSST |
Loại văn bản | Bản án |
Cơ quan | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Ngày ban hành | 29/03/2021 |
Người ký | Chưa xác định |
Ngày hiệu lực | 29/03/2021 |
Tình trạng | Còn hiệu lực |
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 26/2021/HSST NGÀY 29/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 22/2021/TLST - HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 đối với:
* Bị cáo: Lê Duy Anh K. Tên gọi khác: không; sinh ngày: 03.8.1997; tại thành phố Đà Nẵng. Nơi thường trú: tổ 18 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: bán hàng online; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không. Cha: Lê Duy Anh M và mẹ: Trần Thị Mỹ L; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia đình; tiền án: chưa; tiền sự: ngày 31.10.2019 bị Công an phường H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang ngày 15/10/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam H - Công an thành phố Đà Nẵng, có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Huỳnh Ngọc K, sinh năm: 1998;
nơi cư trú: tổ 6 khối phố Hương Sơn, phường H, thành phố T, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt).
* Người chứng kiến:
- Ông Phan Văn L, sinh năm: 1977; nơi cư trú: tổ 13 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
- Ông Phan Minh R, sinh năm: 1965; nơi cư trú: tổ 04 phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 22 giờ 05 phút ngày 15/10/2020, tại cổng trước căn nhà số 103 đường Hoàng Sĩ Khải, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; Phòng CSĐT tội phạm về ma túy - Công an thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Lê Duy Anh K, phát hiện trong túi quần Jean phía sau bên trái của K đang mặc có 01 gói thuốc hiệu Marlboro màu trắng bên trong có chứa 03 gói ni lông màu trắng gồm: 01 gói có kích thước (3,5x7) cm bên trong có chứa 10 viên nén màu vàng, 02 gói có kích thước (2,5x3) cm bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng. K khai nhận đó là ma túy loại thuốc lắc và Ketamine, K đang chuẩn bị bán cho đối tượng tên D, nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng công an thành phố Đà Nẵng phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật.
Tại thời điểm bắt quả tang, K đã khai nhận ở phòng ngủ của K tại tầng 3, nhà số 103 Hoàng Sĩ Khải, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng còn cất giữ 01 hộp bên trong chứa khoảng 05 gam ma túy loại Ketamine và khoảng 20 đến 30 viên thuốc lắc dùng để bán cho con nghiện.
* Tang vật thu giữ tại hiện trƣờng:
- Một gói thuốc màu trắng có chữ Marlboro bên trong có chứa:
+ 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (3,5x7)cm bên trong có chứa: 10 (mười) viên nén màu vàng + 02 (hai) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (2,5x3)cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng.
Tất cả số ma túy trên đều được niêm phong theo qui định pháp luật, kí hiệu: T1;
- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia màu xanh có số IMEI 352885104810039, có gắn thẻ sim số: 0905.987.994;
- 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone có số IMEI 353890105260670, có gắn thẻ sim số: 0792.777.752;
* Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở tại số 103 Hoàng Sĩ Khải, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng đối với Lê Duy Anh K. Lực lượng công an tiếp tục phát hiện và thu giữ:
- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (6x10) cm bên trong có chứa 14 viên nén màu vàng. Được niêm phong theo qui định pháp luật, kí hiệu: K1;
- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (3,5x7)cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (3,5x7) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng (ngả vàng). Được niêm phong theo quy định pháp luật, kí hiệu: K2;
- 02 (hai) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (2,5x3)cm bên trong có chứa chất bột màu vàng; 01(một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (2,5x3)cm có chứa chất bột màu cam. Được niêm phong theo qui định pháp luật, kí hiệu: K3;
- 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (2,5x3) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng; 01 (một) gói nilong màu trắng kích thước khoảng (3,5x7) cm bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng. Được niêm phong theo quy định pháp luật, ký hiệu: K4 - 01 quần Jean;
- 01 cân điện tử màu đen;
- 30 (ba mươi) bao nilong kích thước khoảng (3,5x7) cm chưa qua sử dụng;
- 20 (hai mươi) bao nilong kích thước khoảng (2,5x3) cm chưa qua sử dụng;
- 01 CMND số 201770085 cấp cho Lê Duy Anh K;
- Số tiền 11.000.000 (mười một triệu đồng).
* Căn cứ Kết luận giám định số: 308/GĐ-MT ngày 21 tháng 10 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Đà Nẵng:
- Mẫu viên nén màu vàng ký hiệu T1a, K1, mẫu bột màu vàng và bột màu cam kí hiệu K3 gửi đi giám định là ma túy loại MDMA.
- Mẫu tinh thể rắn màu trắng kí hiệu T1b; K4; mẫu tinh thể màu trắng và trắng ngã vàng ký hiệu K2 gửi đi giám định là ma túy, loại Ketamine. (Trong đó, mẫu giám định ký hiệu T1 được chia thành 10 viên nén màu vàng ký hiệu T1a; Tinh thể rắn màu trắng trong 02 gói nilong ký hiệu T1b).
Khối lượng cụ thể như sau:
Mẫu ký hiệu | T1a | T1b | K1 | K2 | K3 | K4 |
Khối lượng (gam) | 3,471 | 1,265 | 4,859 | 9,199 | 0,534 | 0,601 |
Qua điều tra xác định:
Để có ma túy sử dụng cho nhu cầu nghiện bản thân, vào khoảng tháng 02 năm 2020, thông qua mạng xã hội, Lê Anh Duy K đã liên hệ và mua trái phép của đối tượng tên L (không rõ nhân thân lai lịch) 02 lần ma túy để sử dụng. Đến tháng 08 năm 2020, K nảy sinh ý định mua bán trái phép chất ma túy kiếm lời nên tiếp tục liên hệ L để mua ma túy. Lần này, K mua của L số lượng 15 viên ma túy thuốc lắc với số tiền 180.000 đồng/01 viên và đã bán hết toàn bộ số ma túy đã mua cho các con nghiện với số tiền: 300.000 đồng/01 viên, K không nhớ rõ thời gian, tên tuổi, nhân thân lai lịch, địa chỉ của người mua. Trong các lần mua bán trái phép chất ma tuý này, K đều thực hiện tại khu vực phía trước nhà K.
Đến đầu tháng 10 năm 2020, K tiếp tục liên hệ với L để mua trái phép chất ma túy thì được L thông tin là L đã đi Campuchia nên không bán nữa và L đã giới thiệu K liên hệ một người tên B (không rõ nhân thân, lai lịch, có số điện thoại 0931.989.833) để mua trái phép chất ma túy.
Ngày 08/10/2020, K sử dụng điện thoại số 0905.987.994 liên lạc và đã mua của B: 40 (bốn mươi) viên thuốc lắc với số tiền 180.000 đồng (một trăm tám mươi ngàn đồng)/01 viên. Đến khoảng 11 giờ ngày 15/10/2020, K tiếp tục liên lạc và mua của B:
05 (năm) gam ma túy loại Ketamine với số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng). Tất cả các lần mua bán trái phép chất ma túy của B và K đều được thực hiện tại khu vực gần nhà K.
Sau khi mua trái phép số ma túy nêu trên của B, K đã:
- Trực tiếp sử dụng 03 (ba) viên ma túy thuốc lắc;
- Nghiền nhỏ 02 (hai) viên ma túy thuốc lắc rồi bỏ vào bao ni lông;
- Bán cho:
+ Huỳnh Ngọc K1 (SN:1998, HKTT: tổ 06 KP. Hương Sơn, P. H, TP. T, T.Quảng Nam) 02 (hai) lần;
* Lần 1: 01 (một) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm ngàn đồng) vào ngày 14/10/2020;
* Lần 2: 01 (một) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 400.000 đồng (bốn trăm ngàn đồng) (không nhớ thời gian cụ thể).
(K1i khai đã sử dụng hết số ma túy đã mua) + Nam thanh niên (không biết tên, không rõ nhân thân, lai lịch): 02 (hai) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn)/1 viên, (không nhớ thời gian cụ thể).
+ Nam thanh niên (không biết tên, không rõ nhân thân, lai lịch): 04 (bốn) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn)/1 viên, (không nhớ thời gian cụ thể).
+ Nam thanh niên (không biết tên, không rõ nhân thân, lai lịch): 03 (ba) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn)/1 viên, (không nhớ thời gian cụ thể).
Tất cả những lần K bán trái phép chất ma túy cho con nghiện đều được thực hiện tại khu vực gần nhà số 103 đường Hoàng Sĩ Khải, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng.
+ Đến 21 giờ 30 ngày 15/10/2020, có đối tượng tên “D” (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0799.176.978 liên hệ và thỏa thuận với K để mua 10 (mười) viên ma túy thuốc lắc với số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn)/1 viên và 02 (hai) chỉ ma túy loại Ketamine với số tiền 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). K hẹn D đến trước nhà K tại nhà số 103 đường Hoàng Sĩ Khải để thực hiện việc mua bán.
Đến 22 giờ cùng ngày, K bỏ vào túi quần Jean phía sau bên trái của mình đăng mặc: 10 viên ma túy thưốc lắc và 2 gói ni lông màu trắng kích thước (2x3)cm bên trong chứa ma túy rồi đi ra trước nhà để chờ bán trái phép chất ma túy cho D những chưa kịp bán thì bị lực lượng công an kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ số ma túy trên.
Sau khi bị bắt quả tang, K đã tự thú khai ra số ma túy còn lại đã mua từ B cho cơ quan Công an tại biên bản phạm tội quả tang. Sau đó, lực lượng công an tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của K tại căn nhà số 103 đường Hoàng Sĩ Khải, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng và thu giữ số ma túy còn lại.
Tại bản Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 01.02.2021, Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng đã truy tố Lê Duy Anh K về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố luận tội và cho rằng hành vi của bị cáo Lê Duy Anh K đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm b, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Do đó, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị HĐXX:
Áp dụng điểm điểm b, p khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: bị cáo Lê Duy Anh K từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt phạm tội quả tang.
Đề nghị phạt bổ sung đối với bị cáo số tiền: từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng.
Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thu lợi bất chính từ việc mua bán trái phép 26 viên ma túy thuốc lắc với số tiền 3.320.000 đồng, nên cần phải truy thu số tiền này để sung công quỹ Nhà nước.
- Đối với các đối tượng tên L, B đã bán trái phép chất ma túy cho K; đối tượng tên D và các đối tượng nghiện khác đã liên hệ và mua trái phép chất ma túy của K hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan CSĐT Công an quận S tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp.
- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Huỳnh Ngọc K1, Lê Duy Anh K Công an quận S đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.
- Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự;
+ Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số 308/GĐ-MT ngày 21/10/2020 của Phòng KTHS Công an TP. Đà Nẵng bên trong có chứa:
Mẫu ký hiệu | T1a | T1b | K1 | K2 | K3 | K4 |
Khối lượng trả (gam) | 2,433 | 1,067 | 3,457 | 8,606 | 0,244 | 0,445 |
Là khối lượng ma túy hoàn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói, là vật cấm tàng trữ; lưu hành;
+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 cân tiểu ly điện tử màu đen K khai dùng để cân, phân nhỏ ma túy nhằm mục đích bán lại cho người nghiện; 01 (một) quần Jean; 30 (ba mươi) bao ni lông kích thước khoảng (3,5x7)cm chưa qua sử dụng; 20 (hai mươi) bao ni lông kích thước khoảng (2,5x3)cm chưa qua sử dụng là những công cụ K sử dụng vào việc phạm tội.
+ Tịch thu nộp vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, có số IMEI 352885104810039, có gắn sim số 0905987994 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone có số IMEI 353890105260670, có gắn sim số 0792777752 K dùng để liên lạc mua bán trái phép chất ma túy.
+ Tiếp tục tạm giữ số tiền 11.000.000 đồng là tài sản của K để đảm bảo thi hành án.
(Các vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận S, biên bản giao nhận vật chứng ngày 02.02.2021).
Tại phiên tòa bị cáo trình bày lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu khác mà cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:
Mục lục bài viết
- 1 Được hướng dẫn
- 2 Bị hủy bỏ
- 3 Được bổ sung
- 4 Đình chỉ
- 5 Bị đình chỉ
- 6 Bị đinh chỉ 1 phần
- 7 Bị quy định hết hiệu lực
- 8 Bị bãi bỏ
- 9 Được sửa đổi
- 10 Được đính chính
- 11 Bị thay thế
- 12 Được điều chỉnh
- 13 Được dẫn chiếu
- 14 Hướng dẫn
- 15 Hủy bỏ
- 16 Bổ sung
- 17 Đình chỉ 1 phần
- 18 Quy định hết hiệu lực
- 19 Bãi bỏ
- 20 Sửa đổi
- 21 Đính chính
- 22 Thay thế
- 23 Điều chỉnh
- 24 Dẫn chiếu
Văn bản liên quan
Được hướng dẫn
Bị hủy bỏ
Được bổ sung
Đình chỉ
Bị đình chỉ
Bị đinh chỉ 1 phần
Bị quy định hết hiệu lực
Bị bãi bỏ
Được sửa đổi
Được đính chính
Bị thay thế
Được điều chỉnh
Được dẫn chiếu
Văn bản hiện tại
Số hiệu | 26/2021/HSST |
Loại văn bản | Bản án |
Cơ quan | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Ngày ban hành | 29/03/2021 |
Người ký | Chưa xác định |
Ngày hiệu lực | 29/03/2021 |
Tình trạng | Còn hiệu lực |
Văn bản có liên quan
Hướng dẫn
Hủy bỏ
Bổ sung
Đình chỉ 1 phần
Quy định hết hiệu lực
Bãi bỏ
Sửa đổi
Đính chính
Thay thế
Điều chỉnh
Dẫn chiếu
Văn bản gốc PDF
Đang xử lý
Văn bản Tiếng Việt
Đang xử lý
.