Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là gì? Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật trong Tiếng anh là gì? Quy định của Bộ luật hình sự về tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật? Sự ra đời và phát triển trong quy định về tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật?
Thực tiễn cho thấy, người có chức vụ quyền hạn đang có lợi dụng sự ảnh hưởng của mình để thực hiện các hành vi phạm tội. Nếu như các tội phạm tham nhũng do người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp thực hiện và nhận lại lợi ích thì các tội phạm về hoạt động tư pháp trong đó có tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật, người có chức vụ quyền hạn lại thông qua một chủ thể khác thực hiện hành vi trái pháp luật để nhận lại một lợi ích nào đó. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung phân tích tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, qua đó có sự so sánh, đối chiếu với quy định về tội này trong các Bộ luật hình sự trước đây.
1. Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là gì?
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng
2. Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật trong Tiếng anh là gì?
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật trong Tiếng anh là: “Forcing a judicial officer to act against the law”.
3. Quy định của Bộ luật hình sự về tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật?
Điều 372 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật;
c) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bở lọt tội phạm hoặc người phạm tội;
b) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
3.1. Dấu hiệu khách thể của tội phạm.
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật xâm phạm đến hoạt động tư pháp của nhà nước, xâm phạm đến quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, xã hội.
3.2. Dấu hiệu khách quan của tội phạm.
– Dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật. Để thỏa mãn dấu hiệu này đòi hỏi chủ thể có hành vi ép buộc bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn. Ép buộc là dùng quyền lực của mình buộc người khác phải làm theo ý mình mà họ không muốn. Hành vi ép buộc có thể bằng lời nói: dụ dỗ, hăm dọa, hứa hẹn hoặc bằng hành động như: dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của nhân viên tư pháp. Hay nói cách khác đó là sử dụng quyền uy, de dọa hoặc hứa hẹn để khống chế người bị ép buộc làm theo ý muốn chủ quan của mình. Trong đó, ý muốn chủ quan của chủ thể là muốn người bị ép buộc “làm trái pháp luật” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Đó là làm sai trong điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong thi hành án thuộc lĩnh vực hình sự, lĩnh vực dân sự hoặc lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án.
Về phía người bị ép buộc (người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháo) phải là người nếu không phục tùng người có ép buộc thì sẽ bị trù dập, bị mất quyền và lợi ích (kể cả lợi ích hợp pháp và không hợp pháp) như: bị điều chuyển công tác không theo nguyện vọng, bị xử lý kỷ luật do đã thực hiện hành vi vi phạm, bị xử lý hình thức kỷ luật nặng hơn so với lỗi vi phạm, không được đề bạt, bị phân công những việc khó khăn hoặc các lợi ích vật chất, tinh thần khác…
Nếu người có chức vụ, quyền hạn không ép buộc mà chỉ nhờ vả, nếu người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp không giúp thì cũng không sao; việc làm trái pháp luật của người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp hoàn toàn tự nguyện thì người có chức vụ, quyền hạn không bị coi là ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật.
Người bị ép buộc (người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp) phải thực hiện một công việc mà việc đó là trái pháp luật; nếu bị ép buộc nhưng họ không thực hiện một hành vi trái pháp luật thì người có hành vi ép buộc cũng chưa bị coi là phạm tội.
– Dấu hiệu hậu quả của tội phạm:
Hậu quả của tội phạm được quy định có thể là:
+ Thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
+ Thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên.
Như vậy, hậu quả của tội phạm được quy định có thể là thiệt hại vật chất như thiệt hại gây ra cho đương sự do xử sai trong vụ án dân sự hoặc thiệt hại phi vật chất như thiệt hại gây ra cho người bị tạm giam.
3.3. Dấu hiệu chủ quan của tội phạm.
Lỗi của người phạm tội được quy định là lỗi cố ý. Người phạm tội viết hành vi mà mình ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp phải thực hiện là hành vi trái pháp luật. Họ cũng biết thủ đoạn ép buộc của mình là lợi dụng quyền uy của chức vụ, quyền hạn.
3.4. Dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm được quy định là chủ thể đặc biệt, là người có chức vụ, quyền hạn nên có quyền uy nhất định đối với người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án.
Họ có thể là cán bộ trong bộ máy nhà nước hoặc trong các tổ chức xã hội. Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án được hiểu là những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Họ có thể là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký, tòa án, chấp hành viên, giám thị trại giam,…
3.5. Hình phạt áp dụng.
Điều luật quy định 03 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt bổ sung, cụ thể:
– Khung hình phạt cơ bản được quy định là hình phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Hai khung hình phạt tăng nặng được quy định là hình phạt tù tư 02 năm đến 05 năm và từ 05 năm đến 10 năm.
Các dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng được quy định là dấu hiệu về số lần phạm tội; dấu hiệu về tính chất nguy hiểm của thủ đoạn phạm tội (dùng vũ lực- dùng sức mạnh vật chất tác động đến thân thể, đe dọa dùng vũ lực- là bằng hành động hoặc lời nói làm cho người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp vì sợ mà làm trái pháp luật hoặc thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác) và dấu hiệu về hậu quả của tội phạm (hậu quả ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật, hậu quả gây thiệt hại về tài sản, hậu quả ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, hậu quả người vô tội bị kết án oan hoặc tội phạm, người phạm tội bị bỏ lọt).
– Khung hình phạt bổ sung bắt buộc được quy định là cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Sự ra đời và phát triển trong quy định về tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật?
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật với tên gọi là “tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật” và Bộ luật hình sự năm 1999 cũng sử dụng tên gọi này.
Điều 233 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc nhân viên tư pháp điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án trái pháp luật một cách nghiêm trọng thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.” Trong điều luật này, chỉ áp dụng một khung hình phạt và mức hình phạt cao nhất là ba năm tù. Hành vi được thực hiện là hành vi gây hậu quả nghiêm trọng.
Điều 297 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3.Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.”
So với Điều 233 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 297 Bộ luật hình sự năm 1999 về tội phạm này, có những sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 233 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ có một cấu thành, còn Điều 297 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 3 khoản trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung, bổ sung khoản 2 với tình tiết là yếu tố định khung hình phạt là “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng các thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác và “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; bổ sung tình tiết là yếu tố định tội “làm trái pháp luật trong hoạt động” và sửa khái niệm “một cách nghiêm trọng” bằng khái niệm “gây hậu quả nghiêm trọng”.
Về hình phạt, do yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống loại tội phạm này ngoài việc quy định thêm khung hình phạt tăng nặng thì mức hình phạt cao nhất của tội phạm này là bảy năm thay vì chỉ có ba năm như Điều 233 Bộ luật hình sự năm 1985.
Điều 372 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đã thay đổi tên tội phạm thay vì “tội ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật” thành “tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật”, thực tế việc thay đổi này hợp lý hơn so với Bộ luật cũ, chỉ rõ đối tượng tác động của tội phạm là người có thẩm quyền thay vì chung chung như trước đây.
Hậu quả được thể hiện tại điều 372 được quy định rõ ràng hơn thay vì “gây hâu quả nghiêm trọng”. Bổ sung thêm tình tiết tăng nặng “ phạm tội 02 lần trở lên”. Bổ sung thêm một khung hình phạt tăng nặng với mức hình phạt cao nhất là 10 năm.