Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp, gây áp lực buộc người tiến hành tố tụng hoặc thi hành án làm sai quy định, làm sai lệch công lý. Đây là hành vi nguy hiểm, xâm phạm nghiêm trọng tính độc lập, khách quan của hoạt động tư pháp và bị xử lý hình sự theo Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát về Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
- 2 2. Cấu thành Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015:
- 5 5. Phân biệt với Tội không thi hành án:
1. Khái quát về Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
1.1. Khái niệm:
Trong những năm gần đây, công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam đã đạt nhiều tiến bộ, hướng đến xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý. Tuy nhiên trên thực tế, vẫn còn xảy ra những trường hợp can thiệp, tác động trái pháp luật vào hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Chính vì vậy, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung và hoàn thiện Điều 372 – Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật nhằm xử lý nghiêm khắc mọi hành vi can thiệp, thao túng hoạt động tư pháp, qua đó bảo vệ tính độc lập, khách quan và liêm chính của cơ quan bảo vệ pháp luật.
“Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là hành vi của người lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc vị thế của mình, sử dụng áp lực, mệnh lệnh, đe dọa hoặc các thủ đoạn khác nhằm buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án phải thực hiện hành vi trái pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.”
1.2. Ý nghĩa:
- Thứ nhất: Về phương diện pháp lý, Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật khẳng định nguyên tắc độc lập và tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp. Quy định này là “lá chắn” pháp lý bảo vệ cán bộ tư pháp giúp họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ theo đúng pháp luật, không chịu áp lực hoặc chi phối từ bên ngoài.
- Thứ hai: Về phương diện chính trị xã hội, Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật góp phần ngăn chặn hành vi lạm quyền, tham nhũng, lợi dụng ảnh hưởng cá nhân để can thiệp công lý. Việc xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm giúp củng cố niềm tin của nhân dân vào hệ thống tư pháp, bảo đảm rằng mọi bản án, quyết định được ban hành đều xuất phát từ chứng cứ, quy định pháp luật và lẽ công bằng mà không xuất phát từ “sức ép” hay “mối quan hệ”.
- Thứ ba: Về phương diện quản lý nhà nước, quy định tội danh này là công cụ hữu hiệu trong phòng ngừa và đấu tranh chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp. Nó thể hiện tinh thần “không có vùng cấm và không có ngoại lệ”, đồng thời nhấn mạnh rằng mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Qua đó góp phần xây dựng nền tư pháp liêm chính, công bằng và minh bạch.
1.3. Cơ sở pháp lý:
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật hiện nay đang được quy định tại Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật;
c) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội;
b) Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên.
4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
2. Cấu thành Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
2.1. Khách thể:
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật xâm phạm trực tiếp đến: Lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân và sự thật vụ án, vụ việc cần được xét xử.
2.2. Mặt khách quan:
a. Hành vi vi phạm:
Hành vi khách quan của tội phạm được quy định là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án làm trái pháp luật. Để thỏa mãn dấu hiệu này đòi hỏi chủ thể có hành vi ép buộc bằng thủ đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn.
“Ép buộc” là dùng quyền lực của mình buộc người khác phải làm theo ý mình mà họ không muốn.
- Hành vi ép buộc có thể bằng lời nói: dụ dỗ, hăm dọa, hứa hẹn…;
- Hoặc bằng hành động như: dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của nhân viên tư pháp.
Hay nói cách khác đó là sử dụng quyền uy, de dọa hoặc hứa hẹn để khống chế người bị ép buộc làm theo ý muốn chủ quan của mình. Trong đó, ý muốn chủ quan của chủ thể là muốn người bị ép buộc “làm trái pháp luật” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Đó là làm sai trong điều tra, truy tố, xét xử hoặc trong thi hành án thuộc lĩnh vực hình sự, lĩnh vực dân sự hoặc lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án.
Về phía người bị ép buộc (người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháo) phải là người nếu không phục tùng người có ép buộc thì sẽ bị trù dập, bị mất quyền và lợi ích (kể cả lợi ích hợp pháp và không hợp pháp) như:
- Bị điều chuyển công tác không theo nguyện vọng;
- Bị xử lý kỷ luật do đã thực hiện hành vi vi phạm;
- Bị xử lý hình thức kỷ luật nặng hơn so với lỗi vi phạm, không được đề bạt;
- Bị phân công những việc khó khăn hoặc các lợi ích vật chất, tinh thần khác…
Nếu người có chức vụ, quyền hạn không ép buộc mà chỉ nhờ vả, nếu người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp không giúp thì cũng không sao; việc làm trái pháp luật của người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp hoàn toàn tự nguyện thì người có chức vụ, quyền hạn không bị coi là ép buộc nhân viên tư pháp làm trái pháp luật.
Người bị ép buộc (người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp) phải thực hiện một công việc mà việc đó là trái pháp luật; nếu bị ép buộc nhưng họ không thực hiện một hành vi trái pháp luật thì người có hành vi ép buộc cũng chưa bị coi là phạm tội.
b. Hậu quả:
Hậu quả của tội phạm được quy định có thể là:
- Thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
- Thiệt hại về tài sản từ 50 triệu đồng trở lên.
Như vậy, hậu quả của tội phạm được quy định có thể là thiệt hại vật chất như thiệt hại gây ra cho đương sự do xử sai trong vụ án dân sự hoặc thiệt hại phi vật chất như thiệt hại gây ra cho người bị tạm giam.
2.3. Mặt chủ quan:
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật; nhưng việc xác định động cơ của người phạm tội là rất cần thiết trong quá trình xác định khung hình phạt.
2.4. Chủ thể:
Chủ thể của Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật là chủ thể đặc biệt.
Họ có thể là cán bộ trong bộ máy nhà nước hoặc trong các tổ chức xã hội. Người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng, thi hành án được hiểu là những người có chức vụ, quyền hạn trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án. Họ có thể là điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký, tòa án, chấp hành viên, giám thị trại giam…
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn điều điện là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và từ đủ 16 tuổi trở lên theo Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015.
3. Khung hình phạt của Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật:
Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật theo Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015 gồm những khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng theo Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 372:
- Phạm tội 02 lần trở lên: Đây là tình tiết thể hiện tính tái phạm trong hành vi phạm tội được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015. “Phạm tội hai lần trở lên” được hiểu là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hành vi ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật từ hai lần trở lên, mỗi lần là một hành vi độc lập, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu. Người phạm tội trong trường hợp này bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn (cụ thể là từ 02 năm đến 05 năm tù) nhằm răn đe và ngăn chặn nguy cơ tiếp tục lợi dụng quyền lực để can thiệp trái phép vào hoạt động tư pháp.
- Dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật: Đây là tình tiết mang tính nguy hiểm đặc biệt cao vì hậu quả của hành vi không chỉ dừng lại ở mức gây áp lực lên người có thẩm quyền mà còn tác động trực tiếp đến kết quả của quá trình tố tụng hoặc thi hành án. Khi hành vi ép buộc khiến người tiến hành tố tụng phải ra bản án, quyết định trái pháp luật thì hệ quả là xâm phạm nghiêm trọng đến công lý, quyền con người, quyền công dân và uy tín của cơ quan tư pháp. Tình tiết này phản ánh rõ bản chất xấu xa của hành vi: người phạm tội đã biến quyền lực hoặc ảnh hưởng của mình thành công cụ để thao túng công lý. Vì vậy, pháp luật quy định mức hình phạt nghiêm khắc hơn, nhằm bảo vệ sự độc lập và khách quan của cơ quan tư pháp; đồng thời ngăn chặn tình trạng lạm dụng quyền lực trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt khác: Tình tiết này cho thấy mức độ nguy hiểm tăng cao của phương thức thực hiện tội phạm. Nếu ở khoản 1, hành vi có thể chỉ là sự lợi dụng ảnh hưởng hoặc quyền hạn để gây áp lực thì ở điểm c khoản 2 này người phạm tội sử dụng vũ lực, đe dọa bạo lực hoặc thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm để cưỡng ép người có thẩm quyền làm trái pháp luật. Đây là hành vi tấn công trực tiếp về thân thể, còn “đe dọa dùng vũ lực” là hành vi uy hiếp tinh thần nhằm buộc người khác phải phục tùng. Ngoài ra, “thủ đoạn nguy hiểm, xảo quyệt” bao gồm cả việc dụ dỗ, gài bẫy, uy hiếp bằng thông tin cá nhân, đe dọa danh dự hoặc lợi dụng điểm yếu của người thi hành công vụ để ép họ ra quyết định trái pháp luật. Đây là hành vi xâm hại nghiêm trọng đến tính độc lập của hoạt động tư pháp và gây mất niềm tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật, do đó cần bị xử lý ở khung hình phạt cao hơn.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 200.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng: Tình tiết này phản ánh hậu quả vật chất cụ thể do hành vi ép buộc trái pháp luật gây ra. Khi thiệt hại từ 200 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng, hậu quả được coi là rất nghiêm trọng, đủ để chuyển hành vi từ khung cơ bản (khoản 1) sang khung tăng nặng (khoản 2).
- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: Đây là tình tiết tăng nặng có tính chất định tính, nhằm bao quát các trường hợp hành vi tuy không gây thiệt hại vật chất lớn nhưng gây dư luận tiêu cực, làm mất lòng tin vào cơ quan tư pháp hoặc ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Trong bối cảnh xã hội coi trọng tính liêm chính và minh bạch của hoạt động xét xử, việc lợi dụng chức vụ để thao túng công lý gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự được xem là tình tiết định khung tăng nặng đặc biệt, thể hiện yêu cầu bảo vệ nghiêm ngặt tính độc lập và trong sạch của nền tư pháp Việt Nam.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 372:
- Dẫn đến làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội: Đây là tình tiết nghiêm trọng nhất được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015 và phản ánh hậu quả cực kỳ nguy hiểm của hành vi. Khi hành vi ép buộc người có thẩm quyền làm trái pháp luật dẫn đến việc kết án oan người vô tội, hoặc bỏ lọt người phạm tội thì không chỉ xâm phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân mà còn làm suy yếu niềm tin của nhân dân vào công lý và Nhà nước pháp quyền. Pháp luật quy định mức hình phạt rất nghiêm khắc (từ 05 năm đến 10 năm tù) thể hiện thái độ không khoan nhượng của Nhà nước đối với các hành vi can thiệp và thao túng công lý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.000.000.000 đồng trở lên: Đây là tình tiết định lượng rõ ràng, thuộc khung hình phạt cao nhất của tội danh. Hậu quả thiệt hại từ 1 tỷ đồng trở lên được xem là đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện mức độ nguy hiểm của hành vi không chỉ ở việc xâm phạm hoạt động tư pháp mà còn gây tổn thất nặng nề cho tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân. Những trường hợp này thường liên quan đến các vụ án kinh tế, dân sự, thi hành án hoặc xử lý tài sản có giá trị lớn.
5. Phân biệt với Tội không thi hành án:
Tiêu chí | Tội ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp làm trái pháp luật (Điều 372 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội không thi hành án (Điều 379 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Tính độc lập, liêm chính và đúng pháp luật trong hoạt động tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án). | Hoạt động thi hành bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và bảo đảm pháp luật được thực thi nghiêm minh. |
Hành vi khách quan | Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc ảnh hưởng để ép buộc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hoặc thi hành án phải làm trái pháp luật. | Hành vi cố ý không ra quyết định thi hành án hoặc không thi hành quyết định của Tòa án dù có thẩm quyền thực hiện. |
Chủ thể của tội phạm | Người có chức vụ, quyền hạn hoặc ảnh hưởng, có khả năng tác động đến người có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp. | Người có thẩm quyền thi hành án (ví dụ: Chánh án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án, người được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành). |
Mặt chủ quan của tội phạm | Lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi ép buộc người khác làm trái pháp luật và mong muốn hậu quả xảy ra để đạt mục đích cá nhân hoặc lợi ích nhóm. | Lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện ở việc cố tình không thực hiện nghĩa vụ pháp lý dù có điều kiện và trách nhiệm thi hành án. |
Các khung hình phạt chính | Khung 1: Phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. | Khung 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 3: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. | Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm. |
Bản chất pháp lý của hành vi | Là hành vi can thiệp, thao túng hoạt động tư pháp, làm sai lệch công lý, xâm phạm nguyên tắc độc lập xét xử hoặc thi hành án. | Là hành vi thiếu trách nhiệm hoặc lạm quyền, không thực hiện đúng chức trách trong thi hành án và gây hậu quả pháp lý nghiêm trọng. |
THAM KHẢO THÊM: