HIV/AIDS được coi là “căn bệnh thế kỉ” mà cả nhân loại đấu tranh tuy nhiên hiện nay vẫn chưa có vacxin và thuốc chữa khỏi bệnh. Để đấu tranh, răn đe nghiêm trị hành vi có nguy cơ lây lan một trong những dịch bệnh nguy hiểm cho con người, pháp luật Hình sự đã quy định về Tội lây truyền HIV cho người khác tại Điều 148.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội lây truyền HIV cho người khác:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội lây truyền HIV cho người khác:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội lây truyền HIV cho người khác:
- 4 4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội lây truyền HIV cho người khác:
- 5 5. Phân biệt Tội lây truyền HIV cho người khác với Tội cố ý truyền HIV cho người khác:
- 6 6. Cần làm gì khi bị người khác lây truyền HIV?
1. Khái quát chung về Tội lây truyền HIV cho người khác:
1.1. Tội lây truyền HIV cho người khác là gì?
HIV là chữ viết tắt của cụm từ “Human Immunedeficiency Virus”, đây là loại virus có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải mà hệ miễn dịch của con người bị suy giảm dần dần, tạo điều kiện cho những virus… và ung thư phát triển mạnh làm đe dọa đến tính mạng của người bị nhiễm.
Lây truyền HIV được hiểu là việc virus HIV lây từ cơ thể này qua cơ thể khác, từ nguồn truyền nhiễm sang một cơ thể mới, làm cho cơ thể mới trở thành một nguồn truyền nhiễm khác. Có 03 đường lây truyền chính đó chính là:
- Qua đường quan hệ tình dục không an toàn. Các dịch thể (máu, dịch tiết sinh dục) từ người nhiễm HIV xâm nhập vào cơ thể người không nhiễm HIV;
- Truyền qua máu hay các chế phẩm của máu có nhiễm HIV (tiếp xúc với các vật dụng dính máu, truyền máu nhiễm HIV, ghép mô, ghép tạng…);
- Tuyền từ người mẹ bị nhiễm HIV sang con (máu của mẹ bị nhiễm HIV qua rau thai sang cơ thể thai nhi, nước ối, dịch tử cung, sữa mẹ…).
Có thể đưa ra khái niệm:
“Tội lây truyền HIV cho người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, biết mình bị nhiễm HIV và có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện việc lây truyền virus HIV từ cơ thể mình sang cơ thể người khác, làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV, qua đó xâm phạm đến quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ.”
1.2. Ý nghĩa của việc quy định Tội lây truyền HIV cho người khác Điều 148 Bộ luật hình sự 2015:
a. Bảo vệ quyền được sống và quyền được bảo đảm sức khỏe của con người:
HIV là căn bệnh nguy hiểm, hiện nay chưa có thuốc điều trị dứt điểm. Hành vi cố ý lây truyền HIV không chỉ đe dọa trực tiếp đến quyền sống mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền được bảo vệ sức khỏe, những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận.
Việc quy định tội danh này khẳng định thái độ kiên quyết của Nhà nước trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người trước các hành vi nguy hiểm cho cộng đồng.
b. Góp phần phòng, chống dịch bệnh và bảo đảm trật tự an toàn xã hội:
Hành vi lây truyền HIV mang tính chất đặc biệt nguy hiểm bởi nó làm phát tán căn bệnh truyền nhiễm ra cộng đồng. Một cá nhân cố ý lây truyền HIV cho người khác có thể trở thành nguồn lây nhiễm, gây nên những hậu quả y tế và xã hội khó kiểm soát.
Việc hình sự hóa hành vi này góp phần ngăn ngừa sự lây lan của HIV/AIDS, hỗ trợ công tác phòng, chống dịch bệnh đồng thời giữ gìn sự ổn định của trật tự xã hội.
c. Đề cao ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của người nhiễm HIV:
Pháp luật không kỳ thị người nhiễm HIV nhưng yêu cầu họ phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ cộng đồng. Người nhiễm HIV được pháp luật bảo đảm quyền lợi hợp pháp như những công dân khác, song đồng thời có nghĩa vụ không được cố ý truyền bệnh cho người khác.
Quy định Điều 148 Bộ luật hình sự 2015 vừa mang tính răn đe, vừa mang ý nghĩa giáo dục, buộc người nhiễm HIV phải thận trọng trong sinh hoạt, tình dục, y tế… để không làm ảnh hưởng đến người xung quanh.
d. Thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam:
Pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc xử lý nghiêm khắc hành vi nguy hiểm, mà còn thể hiện sự nhân đạo trong cách thiết kế chế tài. Khung hình phạt tại Điều 148 Bộ luật hình sự 2015 có sự phân hóa rõ ràng, điều này cho thấy nhà làm luật vừa trừng trị, vừa tạo cơ hội cải tạo cho người phạm tội.
Đồng thời, việc quy định riêng tội danh này còn nhằm bảo vệ quyền lợi của những người nhiễm HIV khác, tránh bị kỳ thị do sự đồng nhất giữa “người nhiễm HIV” với “người phạm tội”.
e. Phù hợp với cam kết quốc tế và chiến lược phòng chống HIV/AIDS:
Việt Nam là thành viên của nhiều công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền được sống, quyền được bảo vệ sức khỏe và quyền được bảo vệ khỏi dịch bệnh.
Quy định tội lây truyền HIV cho người khác tại Điều 148 Bộ luật hình sự 2015 góp phần thực hiện cam kết của Nhà nước trong việc phòng chống HIV/AIDS, phù hợp với Chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS đến năm 2030. Điều này thể hiện rõ sự gắn kết giữa chính sách hình sự quốc gia với mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội lây truyền HIV cho người khác:
Điều 148 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về Tội lây truyền HIV cho người khác như sau:
“1. Người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này;
c) Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
d) Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội lây truyền HIV cho người khác:
Lây truyền HIV cho người khác là hành vi của một người biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào. Dưới đây là những yếu tố cấu thành tội phạm của Tội lây truyền HIV cho người khác theo Điều 128 Bộ luật Hình sự 2015:
2.1. Khách thể:
Đối tượng của tội lây truyền HIV cho người khác chính là con người, đối tượng bị tác động đầu tiên và chủ yếu nhất là sức khỏe nạn nhân, khi sức khỏe bị tổn hại dẫn đến những ảnh hưởng đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm.
Khách thể của tội lây truyền HIV cho người khác là: Quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người
2.2. Mặt khác quan:
Hành vi khách quan của tội lây truyền HIV cho người khác là hanh vi làm cho virus HIV lây từ cơ thể người thực hiện hành vi sang cơ thể của người khác (chưa bị nhiễm HIV) bằng các hình thức khác nhau có khả năng làm cho nạn nhân bị nhiễm HIV.
Mặt khách quan của tội này thể hiện qua hành vi cố ý lan truyền HIV cho người khác khi biết mình bị nhiễm HIV (trừ trường hợp nạn nhân đã biết tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục). Một số hành vi lây truyền có thể kể đến như quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung bơm kim tiêm hoặc các hành vi cố ý khác. Hành vi này có thể khiến nạn nhân bị nhiễm HIV, xác định qua kết quả giám định y tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Lưu ý: Việc làm lây truyền HIV phải từ chính cơ thể người phạm tội sang cơ thể người bị hại là dấu hiệu đặc trưng của tội này.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội lây truyền HIV cho người khác là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tức nhận thức được hành vi của mình đi ngược lại đòi hỏi xử sự của xã hội. Hành vi lây truyền HIV cho người khác đi ngược lại công cuộc phòng chống HIV/ AIDS.
Chủ thể của tội lây truyền HIV đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của chủ thể tội lây truyền HIV cho người khác là từ đủ 16 tuổi trở lên.
Ngoài việc có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì chủ thể của Tội lây truyền HIV cho người khác là người bị nhiễm virus HIV. Đây là một dấu hiệu đặc biệt quan tọng trong đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Hành vi lây truyền HIV chỉ có thể được thực hiện bởi người mang trong mình loại virus này. Chỉ những ai biết người bị nhiễm HIV vẫn thực hiện hành vi lây truyền HIV mới có thể trở thành chủ thể của tội lây tuyền HIV cho người khác. Nếu người bị nhiễm HIV nhưng không biết tình trạng nhiễm virus của mình mà lây truyền HIV cho người khác thì không phải chủ thể của tội này.
2.4. Mặt chủ quan:
Lỗi của người phạm tội lây truyền HIV cho người khác là lỗi cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Cụ thể:
- Cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Người phạm tội lây truyền HIV cho người khác nhận thức được nguy hiểm của virus HIV và cách thức lây truyền của virus này, nhận thức được hành vi lây truyền HIV sẽ gây nguy hiểm cho người khác, gây nguy hiểm cho xã hội những vẫn quyết tâm thực hiện hành vi lây truyền, mà mong muốn người kia bị nhiễm HIV;
- Cố ý gián tiếp: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc hậu quả xảy ra (khoản 2 Điều 10 Bộ luật Hình sự năm 2015). Người phạm tội nhận thức được sự nguy hiểm của hành vi lây truyền HIV của mình, biết được người khác rất có thể sẽ bị nhiễm HIV nhưng ý chí của người phạm tội vẫn quyết định thực hiện hành vi này, để mặc cho hậu quả người khác bị nhiễm HIV có thể xảy ra.
3. Khung hình phạt của Tội lây truyền HIV cho người khác:
Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015 quy định 02 khung hình phạt chính đối với Tội lây truyền HIV cho người khác như sau:
Khung 01: Có mức phạt tù từ 01 năm đến 03 năm, được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.
Khung 02: Có mức phạt tù từ 03 năm đến 07 năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau:
- Đối với 02 người trở lên;
- Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật này;
- Đối với phụ nữ mà biết là có thai;
- Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình;
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
4. Tình tiết định khung tăng nặng của Tội lây truyền HIV cho người khác:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng đối với Tội lây truyền HIV cho người khác được quy định tại khoản 2 Điều 148 Bộ luật hình sự 2015 (với khung hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù) như sau:
- Phạm tội đối với 02 người trở lên (theo điểm a Điều 148 Bộ luật hình sự 2015):
Chủ thể thực hiện phạm tội đối với 02 người trở lên nhưng trong một lần phạm tội hoặc phạm tội 02 lần trở lên đối với 02 người trở lên và những lần phạm tội chưa bị xử lý hình sự, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, được đưa ra truy tố và xét xử cùng một lúc.
Nếu cố ý lây truyền cho từ 02 người trở lên nhưng có 01 người bị nhiễm hoặc không ai bị nhiễm thì người phạm tội vẫn bị coi là phạm tội đối với 02 người trở lên.
- Đối với người dưới 18 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 145 của Bộ luật Hình sự 2015 (theo điểm b Điều 148 Bộ luật hình sự 2015):
Là trường hợp nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là người chưa đủ 18 tuổi, người phạm tội có thể biết hoặc không biết việc này.
- Đối với phụ nữ mà biết là có thai (theo điểm c Điều 148 Bộ luật hình sự 2015):
Nạn nhân của hành vi lây truyền HIV là phụ nữ đang có thai mà người phạm tội biết về việc có thai của nạn nhân thông qua nhìn được người phụ nữ mang thai, nghe, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai.
- Đối với thầy thuốc hoặc nhân viên y tế trực tiếp chữa bệnh cho mình (theo điểm d Điều 148 Bộ luật hình sự 2015):
Là trường hợp giữa người phạm tội và nạn nhân có mối quan hệ đặc biệt, cụ thể là những bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lý… hoặc nhân viên y tế khác đang trực tiếp chưa bệnh AIDS và các loại bệnh khác do các nhiễm trung cơ hội gây ra cho người phạm tội.
- Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (theo điểm đ Điều 148 Bộ luật hình sự 2015):
Trường hợp có nạn nhân của hành vi lây tuyền HIV là người đang thi hành công vụ, đó chính là những người đang được cơ quan tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền giao và đang thực hiện nhiệm vụ quyền hạn.
Phạm tội vì lý do công vụ của nạn nhân là phạm tội đối với người đã hoặc sẽ thi hành công vụ, công vụ mà nạn nhân được giao thi hành có liên quan hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến người phạm tội.
Người phạm tội đã thực hiện hành vi lây truyền HIV cho nạn nhân với mục đích nhằm ngăn cản nạn nhân thi hành công vụ hoặc trả tù nạn nhân vì đã thi hành công vụ.
5. Phân biệt Tội lây truyền HIV cho người khác với Tội cố ý truyền HIV cho người khác:
Tiêu chí | Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 149 Bộ luật Hình sự 2015) |
Chủ thể | Chủ thể phải là người bị HIV và biết mình bị nhiễm HIV | Chủ thể có thể là người có hoặc không bị HIV |
Hành vi khách quan | Cố ý lây truyền bệnh từ mình cho người khác | Cố ý truyền bệnh cho người khác mà nguồn gây bệnh có thể không xuất phát từ chủ thể. Hành vi này có thể xuất phát từ bất kì hình thức nào, như cố ý đâm bơm kim tiêm có chứa máu bị nhiễm HIV vào người khác, bác sĩ truyền máu có HIV cho bệnh nhân… |
Lỗi | Cố ý trực tiếp | Cố ý trực tiếp |
Khung hình phạt cao nhất | Hình phạt tối đa 7 năm tù (khoản 2 Điều 148 Bộ luật Hình sự 2015). | Mức phạt cao nhất là tù chung thân (khoản 3 Điều 149 Bộ luật Hình sự 2015). |
Hình phạt bổ sung | Không có | Có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm |
Như vậy, cả hai tội đều là các hành vi xâm phạm đến quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khoẻ của người khác. Đồng thời, cả hai tội danh đều quy định lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội biết rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khoẻ của người khác, thấy rõ hậu quả có thể xảy ra nhưng vẫn thực hiện.
Tuy nhiên 02 tội danh này có sự khác nhau cơ bản về chủ thể và hình phạt. Tội cố ý truyền HIV cho người khác sẽ có các hình thức xử phạt nặng hơn so với Tội lây truyền HIV vì bản chất Tội cố ý truyền HIV cho người khác nguy hiểm hơn rất nhiều so với Tội lây truyền HIV.
6. Cần làm gì khi bị người khác lây truyền HIV?
Theo khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015: Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm:
- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố;
- Cơ quan, tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.
Theo đó, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận tố cáo, đơn tố giác của người dân về Tội lây truyền HIV cho người khác.
Bạn có thể tố cáo hành vi cố ý lây truyền HIV đến Cơ quan công an xã/phường hoặc Viện kiểm sát nơi gần nhất để được hỗ trợ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, bạn cần thực hiện những biện pháp phù hợp để bảo vệ sức khỏe của mình:
- Đi khám và xét nghiệm y tế sớm nhất có thể: Nếu nghi ngờ bị phơi nhiễm HIV (do quan hệ tình dục, tiêm chích chung kim tiêm, truyền máu hoặc bị cố ý lây) thì bạn cần đến Cơ sở y tế có chuyên môn gần nhất để được xét nghiệm và đánh giá nguy cơ;
- Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm (PEP): Nếu trong vòng 72 giờ kể từ khi bị phơi nhiễm, bác sĩ có thể chỉ định thuốc kháng vi-rút (ARV) để giảm khả năng nhiễm HIV. Càng dùng sớm thì hiệu quả sẽ càng cao;
- Theo dõi định kỳ: HIV có giai đoạn cửa sổ (thời gian chưa thể hiện qua xét nghiệm). Vì vậy, cần xét nghiệm nhiều lần theo hướng dẫn của bác sĩ (sau 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng);
- Giữ gìn sức khỏe và tinh thần: Tránh lo lắng cực đoan. HIV ngày nay có thể kiểm soát tốt bằng thuốc ARV giúp người bệnh sống khỏe mạnh lâu dài.
THAM KHẢO THÊM: