Văn mẫu: Cảm nhận về chi tiết bữa ăn ngày đói trong Vợ nhặt

Chi tiết nghệ thuật góp phần không nhỏ tạo nên thành công của tác phẩm. Nó thể hiện tài năng và sự độc đáo của nhà văn. Trong tác phẩm Vợ nhặt, chi tiết bữa ăn ngày đói đã thể hiện được giá trị nhân đạo và hiện thực của nạn đói năm 1945. Dưới đây là bài viết cảm nhận về chi tiết bữa ăn ngày đói trong Vợ nhặt.

1. Dàn bài Cảm nhận về chi tiết bữa ăn ngày đói trong Vợ nhặt:

Mở bài:

Khái quát về tác giả Kim Lân và nêu được những nội dung chính của tác phẩm Vợ nhặt.

Nêu được ý nghĩa chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm: Một trong số những chi tiết ấn tượng, ý nghĩa nhất của truyện ngắn Vợ nhặt là chi tiết về mâm cơm ngày đói với sự xuất hiện của món cháo Cám.

Thân bài:

Bữa cơm ngày đói:

– Là một bữa cơm vô cùng sơ sài, chẳng có gì ngoài một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng.

– Dường như món cháo cáo đã là thức ăn xa xỉ để bà cụ Tứ chiêu đãi con dâu ngày đầu ra mắt nhà chồng.

– Hương vị món cháo cám: miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ.

Ý nghĩa:

– Làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra.

– Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt.

– Làm nổi bật sức sống mạnh mẽ bên trong những con người nghèo khổ.

Kết bài:

Qua chi tiết bữa cơm ngày đói, nhà văn Kim Lân đã khẳng định sức sống mãnh liệt của người dân nghèo khổ.

2. Cảm nhận về chi tiết bữa ăn ngày đói trong Vợ nhặt ngắn gọn:

Mẫu số 1:

Dưới ngòi bút tài năng của mình, nhà văn Kim Lân đã thành công xây dựng chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ nhặt.

Cũng như bao gia đình khác, trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã dậy thật sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp lại căn nhà sáng sủa, gọn gàng hơn. Bà cụ Tứ cũng chu đáo, không quên chuẩn bị bữa cơm sáng đón tiếp con dâu. Nhưng khác xa so với tưởng tượng của người đọc thì bữa cơm ấy lại là bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn chẳng có gì ngoài một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng. Dường như món cháo cáo đã là thức ăn xa xỉ để bà cụ Tứ chiêu đãi con dâu ngày đầu ra mắt nhà chồng. Đó cũng như là một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trực tiếp qua sự hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè khoán, chè khoán đây”. Khi không khí bữa ăn trầm lại vì miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ thì bà vẫn cố động viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”.

Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân ta. Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt. Cuộc sống trở nên thảm hại vì ám ảnh đói khát nhưng con người trong bức tranh nạn đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc sống tốt đẹp ở tương lai, thể hiện sưc sống tinh thần đầy mạnh mẽ.

Chi tiết bữa cơm ngày đói ấy không chỉ tái hiện lại toàn cảnh nạn đói xã hội chúng ta lúc bấy giờ mà còn thể hiện khát vọng mạnh mẽ, chiến đấu với tử thần để giành lại được sự sống của người nông dân.

Mẫu số 2:

“Vợ Nhặt” một trong những tác phẩm thành công của nhà văn Kim Lân. Những trang văn của ông thấm đượm được tính hiện thực những năm nạn đói 1945. Đặc biệt việc xây dựng chi tiết rất thành công của Kim lân giúp tác phẩm càng trở nên thu hút và gây ấn tượng với người đọc. Đặc biệt chi tiết về bữa cơm ngày đói chiêu đãi nàng dâu mới về nhà chồng của bà cụ Tứ đã đem đến nhiều cảm nhận trong lòng người đọc.

Đó mặc dù là chi tiết nhỏ những cũng đủ để phản ánh hiện thực cuộc sống mà cái đói bao phủ toàn xã hội. Khác với sự chêu đãi của các gia đình khi có con dâu mới về nhà chống với bữa cơm tươm tất đầy đủ món ăn, thì trong gia định nhà bà cụ Tứ thì: “Giữa cái mẹt rách…muối ăn với cháo”. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả chi tiết bữa cơm ấy để gợi lên một xã hội mà cái đói đanh hoành hành cướp đi mạng sống của không biết bao nhiêu người dân. Những người nông dân nghèo khổ ấy đang thoi thóp, đấu tranh với tử thần để dành lại sự sống cho mình. Tuy nhiên, bằng hết khả năng của mình, bà cụ Tứ vẫn chiêu đã con dâu món ăn xa xỉ nhất: cháo cám. Người mẹ chồng ấy không vì cái đói nghèo mà bỏ qua bữa cơm đầu tiên của con dâu khi sống ở nhà mình. Mặc dù không là món ăn ngon đầy đủ dưỡng chất nhưng đó là những sự trân trọng, quý giá nhất mà bà cụ Tứ dành cho con dâu mới. Rõ ràng, lúc bấy giờ chỉ cần có đồ ăn để duy trì sự sống chứ không cần thiết phải ăn ngon hay là không, Cái đói năm 1945 được nhà văn Kim Lân khắc họa một cách rõ nét nhất, chân thực nhất.

Qua đó, người đọc càng thấy trân trọng tấm lòng vốn quý của bà cụ Tứ, trong cái nghèo đói con người tranh nhau sự sống, bà vẫn chia sẻ sự sống ấy cho đứa con dâu mới của mình. Đồng thời thể hiện sự kiên cường không chịu khất phục cuộc sống của những người dân nghèo khổ nơi đây.

3. Cảm nhận của em về bữa ăn ngày đói trong truyện ngắn Vợ nhặt:

Mẫu số 1:

“Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Quả thật điều đó đã được thể hiện qua truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Đó là chi tiết bữa cơm ngày đói sau khi Tràng có được vợ. Đây là một chi tiết giàu ý nghĩa thể hiện được dụng ý nghệ thuật của nhà văn.

“Vợ nhặt” kể về Tràng một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc. Sáng hôm sau, Tràng cảm thấy mình có sự thay đổi kì lạ. Sau đó là bữa ăn ngày đói của cả gia đình.

Trong cuộc sống, bữa ăn đầu tiên của một gia đình sau khi có nàng dâu mới rất quan trọng. Nhưng ở trong Vợ nhặt thì bữa ăn chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. Toàn là những món ăn hết sức đơn giản. Bữa cơm đã cho thấy sự nghèo đói của một gia đình ở tầng lớp dưới cùng của xã hội. Đồng thời việc miêu tả bữa ăn cũng cho thấy một hiện thực ở nông thôn Việt Nam những năm 1945. Nạn đói hoành hành, đẩy con người vào cuộc sống nghèo đói. Nhưng trong hoàn cảnh vậy, họ vẫn lạc quan, “cả nhà đều ăn rất ngon lành”, rồi họ nói với nhau về chuyện tương lai tốt đẹp.

Đặc biệt là hình ảnh nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là chè khoán. Món ăn thường dùng trong chăn nuôi gia súc. Vậy mà ở đây lại là thức ăn của con người. Cách gọi của bà cụ Tứ gợi ra tiếng cười xót xa cho cảnh ngộ của con người trong nạn đói. Tuy vậy, cách đón nhận của mỗi người lại khác nhau. Bà cụ Tứ vẫn tươi cười, đón đả: “- Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Người vợ nhặt thì đón lấy bát “cháo cám” được miêu tả: “hai con mắt thị tối lại”. Còn Tràng, “gợt một miếng bỏ vội vào miệng. Mặt hắn chun lại ngay, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”. Nồi cháo cám đã kéo họ về với hiện thực cuộc sống đói nghèo. Kim Lân tiếp tục miêu tả: “Bữa cơm từ đấy không ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”. Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng đã gửi gắm nhiều ý nghĩa.

Qua chi tiết mà Kim Lân xây dựng, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc về nạn đói năm 1945, cũng như thấu hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong hoàn cảnh đó.

Mẫu số 2:

Dưới ngòi bút tài năng của mình, nhà văn Kim Lân đã thành công xây dựng chi tiết bữa cơm ngày đói trong tác phẩm Vợ nhặt.

Cũng như bao gia đình khác, trong buổi sáng đầu tiên về nhà chồng, chị vợ nhặt đã dậy thật sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp lại căn nhà sáng sủa, gọn gàng hơn. Bà cụ Tứ cũng chu đáo, không quên chuẩn bị bữa cơm sáng đón tiếp con dâu. Nhưng khác xa so với tưởng tượng của người đọc thì bữa cơm ấy lại là bữa cơm thật thảm hại, thiếu thốn chẳng có gì ngoài một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, một niêu cháo lõng bõng. Dường như món cháo cáo đã là thức ăn xa xỉ để bà cụ Tứ chiêu đãi con dâu ngày đầu ra mắt nhà chồng. Đó cũng như là một món quà đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị trực tiếp qua sự hào hứng, vui vẻ cùng lời giới thiệu đầy hài hước “Chè khoán, chè khoán đây”. Khi không khí bữa ăn trầm lại vì miếng cháo đắng chát nghẹn ứ nơi cổ thì bà vẫn cố động viên các con “Cháo cám đấy. Ngon đáo để. Trong xóm mình khối nhà còn không có mà ăn”.

Nhà văn Kim Lân tập trung miêu tả mâm cơm ngày đói đã làm tăng giá trị hiện thực khi tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra cho nhân dân ta. Trong nạn đói, cháo cám món ăn vốn không dành cho con người cũng trở thành món ăn, món quà đặc biệt. Cuộc sống trở nên thảm hại vì ám ảnh đói khát nhưng con người trong bức tranh nạn đói ấy chưa bao giờ bi quan, tiêu cực mà luôn hướng đến cuộc sống tốt đẹp ở tương lai, thể hiện sưc sống tinh thần đầy mạnh mẽ.

Chi tiết bữa cơm ngày đói ấy không chỉ tái hiện lại toàn cảnh nạn đói xã hội chúng ta lúc bấy giờ mà còn thể hiện khát vọng mạnh mẽ, chiến đấu với tử thần để giành lại được sự sống của người nông dân.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )