Tự do hóa tài chính là gì? Xu hướng tứ do hóa tài chính hiện nay?

Tự do hóa tài chính? Lợi ích của tự do hóa tài chính? Rủi ro của tự do hóa tài chính? Xu hướng tự do hóa tài chính?

Trong quá trình hội nhập quốc tế của đất nước thì tự do hóa tài chính hiện đang là một khía cạnh được nhiều người quan tâm bởi tự do hóa tài chính đã ảnh hưởng tới sự ổn định của hệ thống tài chính. Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế thông qua việc ký kết các hiệp định, tham gia vào các tổ chức quốc tế. Cùng với quá trình hội nhập đó, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đã nỗ lực chọn cho mình những giải pháp tự do hóa tài chính để gia tăng tính cạnh tranh trong hệ thống tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực, đem lại những lợi ích thiết thực cho bản thân mình. Trước tình hình nền kinh tế thế giới đang ngày càng đầy biến động hiện nay, tự do hóa tài chính đang ngày càng được quan tâm và cần được nhắc đến.

1. Tự do hóa tài chính là gì?

- Tự do hóa tài chính đang là một khái niệm rộng và đa dạng, tuy nhiên có thể hình dung được vấn đề qua các khái niệm sau đây:

Thứ nhất, tự do hóa tài chính được hiểu là sự xóa bỏ đi các hạn chế, định hướng hay ràng buộc trong quá trình phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá trình phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa là các tổ chức tài chính được quyền tự do xác định lãi suất - tiền gửi và cho vay.

Định nghĩa này cũng bao hàm việc xóa bỏ mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được (ví dụ như các khoản tín dụng ưu đãi).

Thứ hai, tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động tài chính mang tính chất trung gian, điều này đồng nghĩa với việc chấm dứt sự phân biệt đối xử về pháp lí giữa những loại hình hoạt động khác nhau.

- Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa như sau: “Tự do hoá tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường”. Đây chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các quyền tham gia thị trường cho các bên tìm kiếm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được của pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau.

Bản chất của việc tự do hoá tài chính là nhằm mục đích đưa hoạt động tài chính vận hành theo cơ chế vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ Chính phủ sang thị trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội.

Nội dung cơ bản của tự do hóa tài chính bao gồm: Tự do hoá lãi suất, tự do hóa tỷ giá, tự do hoá hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, tự do hoá hoạt động ngoại hối và tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính.

- Tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính:

Tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính được hiểu là việc xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các tổ chức tài chính thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, giữa các loại hình tổ chức tài chính, giữa các tổ chức tài chính trong nước và tổ chức tài chính nước ngoài. Các nước có thể tiến hành tự do hoá tài chính theo lộ trình, phương pháp được lựa chọn cho phù hợp với đặc điểm riêng có của mình.

Tự do hóa tài chính trong tiếng Anh được gọi là Financial Liberalization.

2. Lợi ích của tự do hóa tài chính:

Lợi ích của tự do hóa tài chính bao gồm:

- Thứ nhất, tự do hóa tài chính giúp phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả trên phạm vi quốc gia và toàn cầu. Tự do hóa lãi suất chính là quá trình để cho các lực lượng thị trường quyết định mức giá của nguồn lực quan trọng nhất, đó là vốn. Theo đó, nguồn lực khan hiếm này sẽ được phân bổ tới những người vay hiệu quả nhất. Sự vận động tự do của vốn cho phép một sự phân bổ tiết kiệm trên toàn cầu hiệu quả hơn và hướng các nguồn lực tới những nơi sử dụng có hiệu quả nhất.

- Thứ hai, tự do hóa tài chính giúp thúc đẩy tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Với yếu tố khác là như nhau, nếu càng có nhiều loại định chế và sản phẩm tài chính thì hệ thống tài chính càng hiệu quả và đóng góp nhiều hơn cho phát triển kinh tế. Sự chuyên nghiệp cao, lợi thế nhờ quy mô cùng tính hiệu quả do cạnh tranh mang lại sẽ chuyển thành lợi ích cho người tiêu dùng dưới dạng những sản phẩm chất lượng cao và chi phí thấp. Điều này kích thích gia tăng nguồn tiết kiệm quốc gia. Tính lưu động của vốn có thể cho phép các nhà đầu tư đạt được các mức sinh lời cao hơn. Lợi suất cao hơn có thể khuyến khích tiết kiệm và đầu tư để đem lại những tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn.

- Thứ ba, tự do hóa tài chính giúp thúc đẩy cải cách ở các quốc gia, cải thiện chất lượng tăng trưởng. Mở cửa, hội nhập kinh tế nói chung và tự do hóa tài chính nói riêng sẽ buộc mỗi quốc gia phải cải cách, thích ứng với những chuẩn mực chung, tiên tiến của thế giới. Quá trình cải cách diễn ra trên các mặt, khuôn khổ pháp lý phải được thay đổi, bổ sung, hoàn thiện theo những luật chơi chung...

- Thứ tư, tự do hóa tài chính giúp tránh được những chi phí của kiểm soát vốn. Việc sử dụng các biện pháp kiểm soát vốn, dù có hiệu lực hay không cũng đều kéo theo những khoản chi phí. Khi tiến hành tự do hóa thì sẽ tránh được những chi phí này.

3. Rủi ro của tự do hóa tài chính:

Bên cạnh những tác động tích cực được nêu cụ thể bên trên thì quá trình tự do hóa tài chính sẽ làm cho thị trường tài chính của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển dễ bị tổn thương hơn bởi các yếu tố rủi ro. Cụ thể đó là:

- Thứ nhất, tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng tài chính. Điều lo lắng này xuất phát từ hai vấn đề nảy sinh: Mở cửa thị trường tài chính nội địa còn chưa phát triển đầy đủ sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi các cuộc tấn công tài chính từ bên ngoài; Hội nhập tài chính làm gia tăng rủi ro khủng hoảng dây chuyền từ thị trường bên ngoài vào khu vực tài chính trong nước.

Tự do hóa tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô.

- Thứ hai, tự do hóa tài chính có thể làm mất quyền điều tiết thị trường tài chính của Chính phủ. Tự do hóa tài chính có thể làm thị trường tài chính trong nước bị thao túng bởi các thế lực bên ngoài, đặc biệt trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng cạnh tranh kém. Các tập đoàn, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài khi đã thao túng được thị trường tài chính, họ sẽ chi phối đến các chính sách của Chính phủ làm cho các chính sách này trở nên có lợi hơn cho họ. Hơn nữa, thị trường tài chính trong nước sẽ trở nên nhạy cảm hơn trước sự biến động của thị trường tài chính quốc tế và có thể dẫn đến kết cục là sự bất ổn chính trị trong nước.

4. Xu hướng tự do hóa tài chính:

Trong những năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu hệ thống tài chính của mỗi nước.

Với nhiều sự biến động cụ thể và thậm chí là khủng hoảng tại một số quốc gia, đặc biệt là các nền kinh tế Đông Á - một thời được coi là tồn tại sự phát triển bền vững từ đó đã đã gây ra nhiều tranh luận về hệ thống quản lí tài chính của quốc gia.

Tuy nhiên, một xu thế được coi là một hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện nay và được nhiều quốc gia thực hiện. Xu thế tự do hóa tài chính đó là từng bước tiến hành tự do hóa hệ thống tài chính của đất nước.

Xu thế tự do hóa tài chính hiện nay đã và đang trở thành xu thế lớn của kinh tế học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh, theo một đánh giá của Tổng giám đốc Hiệp hội ngân hàng Pháp thì:

"Từ hơn 30 năm nay, một số lượng lớn các nước đang dấn thân vào con đường tự do hóa hệ thống tài chính của quốc gia; nhưng với những biến động trong thời gian gần đây, câu hỏi được đặt ra là nên tự do hóa như thế nào còn chưa có câu trả lời cụ thể và do đó, rất cần có những tổng kết, kinh nghiệm để đúc kết thành những bài học có tính chất nguyên tắc chung".

Theo kết quả đánh giá của Tổ chức Heritage về mức độ tự do hóa kinh tế cho thấy, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có độ mở cửa còn thấp so với trong khu vực và trên thế giới.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )