Tranh luận tại phiên tòa dân sự là gì? Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm?
Việt Nam là một trong những nước có pháp luật tố tụng quy định theo xu hướng của mô hình tố tụng tranh tụng, bởi vì, trong quan hệ dân sự mà có tranh chấp thì việc mà các bên hoăc là luật sư các bên là người thấu hiểu để xử lý và giải quyết các tranh chấp này để nhằm mục đích bảo vệ nguyền lợi của đương sự một cách chính xác nhất. Chính vì vậy mà pháp luật tố tụng hiện nay càng ngày càng được quy định rõ ràng và cụ thể hơn về việc tranh tụng này. Việc quy định rõ ràng và chi tiết về việc tranh luận tại phiên Tòa dân sự thì những người có liên quan đến vụ án sẽ trực tiếp tự mình tranh tụng về nội dung vụ việc hoặc thấy mình không đủ khả năng tranh tụng thì trực tiếp nhờ luật sư hay còn gọi là người bào chữa tranh tụng giúp mình.
Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
1. Tranh luận tại phiên Tòa dân sự là gì?
Tranh luận tại phiên Tòa là hoạt động trung tâm của phiên Tòa. Bộ luật tố tụng dân sự đã dành hẳn một mục với 4 điều luật, từ Điều 260 đến Điều 263 quy định về tranh luận tại phiên Tòa. Điều đó thể hiện xu hướng đổi mới hoạt động tư pháp ở nước ta là mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò chủ động của đương sự trong tranh luận ở phiên Tòa, bảo đảm cho đương sự bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.
Tranh luận tại phiên Tòa dân sự là hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng tại phiên Tòa dân sự trong việc trao đổi, bàn cãi các ý kiến về vụ án dân sự.
Tranh luận tại phiên Tòa dân sự thể hiện tính dân chủ của tố tụng dân sự, có tác dụng làm rõ các tỉnh tiết của vụ án dân sự, bảo đảm việc giải quyết vụ án dân sự đúng đắn. Pháp luật tố tụng dân sự quy định tranh luận tại phiên Tòa được tiến hành ở phiên Tòa dân sự sơ thẩm, phúc thẩm và sau thủ tục hỏi tại phiên Toà.
Trong thủ tục tranh luận tại phiên Tòa , người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự hoặc người đại diện của đương sự, đại diện cơ quan, tổ chức khởi kiện phát biểu ý kiến về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án dân sự. Khi phát biểu, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên Tòa cũng như kết quả của việc hỏi tại phiên Tòa . Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác.
Chủ toạ phiên Tòa không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án. Qua tranh luận, nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc xem xét chưa được đầy đủ hoặc cần phải xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi, sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận.
Liên quan đến việc tranh luận tại phiên Tòa là vấn đề đã được bàn luận lâu nay trong thực hiện pháp luật tố tụng dân sự là có nên đưa nguyên tắc tố tụng tranh tụng vào quy trình xét xử hay không? Nội dung cơ bản của nguyên tắc tranh tụng là nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và quyền được tranh luận công khai tại phiên Tòa. Nguyên tắc tranh tụng sẽ có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức của Tòa án và những người tham gia tố tụng về địa vị pháp lý của họ trong tố tụng. Còn Tòa án, trên cơ sở chứng cứ các bên cung cấp và chứng cứ mà Tòa án thu thập được, sẽ đưa ra quyết định trong những bản án, quyết định của mình.
2. Tranh luận tại phiên Tòa sơ thẩm:
Trên cơ sở quy định tại điều 260 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về trình tự tranh tụng trong phiên Tòa sơ thẩm. Trước tiên cần xác định pháp luật này có quy định về những người tham gia tranh luận là đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tranh luận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phát biểu trước, sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Trong tố tụng dân sự, quyền và lợi ích của đương sự do đương sự định đoạt và quyết định. Vì vậy, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đều coi đương sự, người đại diện hay người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ là những người có vai trò tích cực, chủ động và Quyết định trong việc giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó thì pháp luật tố tụng dân sự đã quy định thủ tục tranh luận tại phiên Tòa theo hướng nhằm tạo điều kiện tối đa về thời cơ để các bên đương sự tự chứng minh cho các yêu cầu của họ bằng các chứng cứ lí lẽ mà họ phân tích, đánh giá công khai ngay tại phiên Tòa. Vì vậy, theo như Điều 261 Bộ luật tố tụng dân sự không hạn chế thời gian tranh luận nhưng chủ tọa phiên Tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án tránh tình trạng có quá nhiều thông tin gây lãng và làm sai lệch đi việc tìm ra kết quả chính xác cuối cùng. Tuy nhiên, việc không hạn chế thời gian tranh luận được xác định là điểm mới của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về vấn đề quy định mới này đã thể hiện tinh thần mở rộng tranh tụng, tạo điều kiện cho đương sự có khả năng sử dụng mọi phương pháp chứng minh theo luật định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Mặt khác thì quy định không giới hạn thời gian tranh tụng này cũng đề cao được vai trò điều khiển đảm bảo cho tranh luận của các bên đương sự tập trung vào những nội dung trọng tâm tránh kéo dài thời gian tranh luận không cần thiết. Do đó, để tránh phiên Tòa đi chệch hướng, sa đà vào những tình tiết không cơ bản của vụ án, pháp luật quy định các bên khi tham gia tranh luận cần tập trung vào hai nội dung quan trọng sau đây:
+ Phân tích, đánh giá chứng cứ, tranh luận bảo vệ lý lẽ của mình, trong đó có quyền đưa ra các chứng cứ để bác bỏ lý lẽ của phía bên kia và chỉ rõ việc áp dụng quy phạm pháp luật nội dung nào để giải quyết vụ án.
+ Trong khi phát biểu tranh luận, đánh giá về vụ án, các bên tham gia tố tụng đề xuất quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được các bên thảo luận, xem xét, xác minh, thừa nhận tại phiên Tòa.
Không những thế mà pháp luật tố tụng dân sự quy định thủ tục tranh luận tại phiên Tòa là nhằm tạo điều kiện tối đa về thời cơ để các bên đương sự tự chứng minh cho các yêu cầu của họ bằng các chứng cứ lý lẽ mà họ phân tích, đánh giá công khai ngay tại phiên Tòa. Vì vậy, Điều 261 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát biểu khi tranh luận và đối đáp là: “Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án, người tham gia tranh luận phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên Toà cũng như kết quả việc hỏi tại phiên Toà. Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên Toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án”.
Tại phiên Tòa sơ thẩm, kiểm sát viên chỉ phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sụ, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án (không đề nghị hội đồng xét xử giải quyết vụ án. Quy định này thể hiện mức độ can thiệp cần thiết của hội đồng xét xử đối với quá trình tranh luận nhằm đảm bảo tính khách quan, chân thực của những tài liệu, chứng cứ, xác định giá trị chứng minh của chứng cứ, đảm bảo tất cả các tình tiết của vụ án phải được làm sáng tỏ. Như vậy pháp luật đã xác định rất rõ nội dung phát biểu của kiểm sát viên tại phiên Tòa sơ thẩm. nếu như kiểm sát viên tham gia phiên Tòa cho rằng hội đồng xét xử vi phạm tố tụng thì có quyền đề nghị hội đồng xét xử hoãn phiên Tòa khắc phục những thiếu sót đó.
Cuối cùng thì việc tranh luận tại phiên Tòa sơ thẩm được thực hiện khá toàn diện với việc quy định khi tranh luận hội đồng xét xử có thể quay lại thủ tục hỏi tại Điều 263 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Quy định này cho thấy thủ tục tố tụng tại phiên Tòa sơ thẩm không quá cứng nhắc như quy định trước đây nhằm đảm bảo các tình tiết, sự kiện của vụ án đều được làm sang tỏ thông qua thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên Tòa.
Như vậy có thể thấy, Sự ra đời của điểm mới này trong giai đoạn tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã giải quyết được các vấn đề về việc tranh tụng của các đương sự trong vụ án. Bộ luật này cũng có quy định về việc đương sự trong vụ án hay được biết đến là đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tranh luận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền phát biểu đề bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong một vụ án dân sự sơ thẩm. bên cạnh đó, người có thẩm quyền xét xử vụ án cũng dựa vào việc tranh tụng đó mà đưa ra các phán quyết về vụ việc này, điều đó giúp cho Tòa án thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình được thuận tiện hơn rất nhiều so với trước.